THƯ VIỆN TỈNH LÀO CAI
PHÒNG NGHIỆP VỤ CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG
***
Căn cứ Hướng dẫn 01/HD-BTGDVTW, ngày 21/2/2025 của Ban Tuyên giáo Dân vận Trung ương về Hướng dẫn tuyên truyền Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025); văn bản 142/VHCS-QCTT, ngày 24/2/2025 của Cục Văn hóa cơ sở, v/v tuyên truyền Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025);
Phòng Nghiệp vụ Công nghệ và Truyền thông- Thư viện tỉnh Lào Cai xây dựng Thư mục chuyên đề Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), nhằm tuyên truyền sâu rộng về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại thắng Mùa Xuân năm 1975…; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam…
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 50 NĂM
NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(30/4/1975 - 30/4/2025)
I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh nhất thế giới tư bản, đứng ra giữ vai trò giám sát, can thiệp vào các vấn đề quốc tế để bảo vệ cho cả hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã bị suy yếu nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng trước sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của hệ thống xã hội chủ nghĩa với trụ cột là Liên Xô, Trung Quốc. Đây là nhân tố mới, làm thay đổi tương quan lực lượng toàn cầu, có lợi cho phong trào cách mạng thế giới; buộc Mỹ phải thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tranh giành vị trí và ảnh hưởng với các đế quốc khác.
Với vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và trước sự tiến công mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại; đế quốc Mỹ xác định Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất, có vị trí sống còn trong tuyến ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản nên đã tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương ngay từ đầu những năm 50 thế kỷ XX. Một mặt, Mỹ ra tay giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay thế Pháp để độc chiếm Đông Dương. Sau khi thực dân Pháp thua trận, Mỹ đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, vội vã lập ra khối quân sự Đông Nam Á và hất cẳng Pháp, xâm chiếm miền Nam hòng đánh bại cách mạng Việt Nam, nhằm lập phòng tuyến ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á, bao vây, uy hiếp và chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở các nơi trên thế giới.
Về phía ta, mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc và phồn vinh là nguyện vọng thiêng liêng, là sự nghiệp chính nghĩa của toàn thể Nhân dân, cũng là mục tiêu cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với các nước trên thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”, từ đó Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân đã ra tuyên bố công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thiết lập quan hệ ngoại giao, ủng hộ và viện trợ vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân dân ta.
Với thắng lợi qua các chiến dịch và Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 07/5/1954 đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, rút quân khỏi nước ta, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tuy nhiên trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới; miền Nam vẫn phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, toàn thể dân tộc Việt Nam trước sau như một đoàn kết đồng lòng, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ trở thành tư tưởng lớn của thời đại, để hoàn thành cho kỳ được mục tiêu Tổ quốc thống nhất, đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà.
Chính vì vậy, “nước Việt Nam ta trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính chất thời đại rất sâu sắc”. Đó là nguồn gốc sâu xa, là nguyên nhân trực tiếp và cũng là bản chất của cuộc chiến tranh giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược.
II. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC
1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, sau hai năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường; dụ dỗ và cưỡng ép gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt, gây khó khăn cho ta trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; rải truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm lung lạc quần chúng, gây hoang mang trong Nhân dân. Thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, trại tập trung, cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 mở rộng (tháng 7/1954) xác định “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Trước tình thế mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bố trí một số cán bộ, đảng viên ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh, đồng thời thực hiện việc chuyển quân, đưa hàng vạn con em, chiến sĩ, đồng bào, cán bộ ở miền Nam ra Bắc học tập, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cũng như chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và tái thiết đất nước sau chiến tranh; lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, Đảng ta tích cực chỉ đạo triển khai những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định, sớm tổ chức cuộc sống mới sau chiến tranh. Sau kế hoạch 3 năm (1955 - 1957) khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho đấu tranh thống nhất nước nhà, miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, kiên cường, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 01/1959, Nghị quyết Trung ương 15 ra đời, chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân; phản ánh đúng xu thế tất yếu của lịch sử, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi (1959 - 1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, mở đầu những thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965
Đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi chính thức thông qua chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, thực chất là “dùng người Việt đánh người Việt” với công thức: lực lượng ngụy Sài Gòn cộng vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ. Mỹ dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, “Ấp chiến lược”, tách lực lượng cách mạng ra khỏi Nhân dân.
Để đối phó với chiến lược mới của địch, ngày 31/01/1961, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị “về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Ngày 15/02/1961, các tổ chức vũ trang miền Nam đã thống nhất thành “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ở miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các phong trào thi đua sôi nổi “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” ở khắp các địa phương, các cấp, các ngành đã đưa cách mạng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc, không ngừng tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của Nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, kết hợp ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai.
Ngày 02/01/1963, chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho) đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch, với lực lượng đông hơn ta 10 lần, dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Từ năm 1964 - 1965, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân càn quét của địch, làm nên những chiến thắng oanh liệt, như: Bình Giã (02/12/1964 - 03/01/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965), Đồng Xoài (11/5 - 22/7/1965)...
Ngày 05/8/1964, Mỹ cho không quân đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của “hậu phương lớn” miền Bắc cho “tiền tuyến lớn” miền Nam. Nhờ sự chuẩn bị từ trước, quân và dân ta đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm, đánh bại cuộc tiến công của địch.
Trước những thắng lợi vang dội của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước sự thất bại hoàn toàn, buộc đế quốc Mỹ phải ồ ạt đưa quân đội viễn chinh vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Từ đây, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới.
3. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968
Chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ sử dụng quân đội Mỹ làm lực lượng cơ động chiến lược để tìm diệt bộ đội chủ lực ta; dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn để bình định, kìm kẹp Nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967); đồng thời, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước, Người khẳng định quyết tâm của Nhân dân ta “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người khẳng định “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Bàu Bàng… quân và dân ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở các thành phố lớn. Ở miền Bắc, quân dân ta tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris, mở ra cục diện mới vừa đánh vừa đàm.
- Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản, chúng thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào; thực hiện chiến tranh hủy diệt và nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm giành dân, bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của Nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân Lào, Campuchia từng bước đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc bằng máy bay B52 của Mỹ, làm nên chiến thắng oanh liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh theo thế có lợi cho ta. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973 về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, làm tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi cuối cùng.
5. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến năm 1975
Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn làm công cụ chiến tranh. Mỹ tăng cường chi viện tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy lấn đất, giành dân, khống chế Nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của quân đội ngụy Sài Gòn ngày càng tăng.
Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã họp Hội nghị lần thứ 21, ra Nghị quyết “Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới”, trong đó khẳng định“Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Thắng lợi toàn Miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó đưa quân trở lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến, quyết định tiến hành mở cuộc tiến công chiến lược nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời tiến hành giành lại chủ quyền trên các vùng biển, đảo và quần đảo phía Nam của Tổ quốc.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 04/3/1975 với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; hai chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt.
- Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26/4 - 30/4/1975)
Sau một tháng Tổng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện cả về chính trị và quân sự. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ Quân khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi vào tình thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây dựng tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định.
Từ nhận định dù Mỹ có chi viện cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của quân ngụy, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm. Ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Các lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh chủng tăng - thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: hướng Bắc - Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc - Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng Đông - Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước cuộc tiến công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
- Giành lại chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển, đảo, quần đảo phía Nam của Tổ quốc
Cùng với giải phóng trên đất liền, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh nghiên cứu thời cơ để giành lại chủ quyền các đảo, quần đảo do quân đội ngụy Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông, đây là phần lãnh thổ rất quan trọng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế không thể tách rời của Tổ quốc. Ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công các đảo thuộc vùng biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa, giành lại chủ quyền các đảo vào ngày 29/4/1975.
Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975, bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA QUÂN VÀ DÂN HÀ TĨNH TRONG SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
Trong 10 năm tiến hành cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1965 - 1975), tỉnh Hà Tĩnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng: “hậu phương của tiền tuyến miền Nam, tiền tuyến của hậu phương miền Bắc”. Mặc dù phải đương đầu với những thử thách ác liệt, chịu đựng những tổn thất, hy sinh to lớn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, vươn lên mạnh mẽ với tinh thần “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Toàn tỉnh đã nở rộ phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi. Hà Tĩnh là địa bàn trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ.
Từ đầu năm 1963, đế quốc Mỹ đã tổ chức nhiều toán gián điệp biệt kích xâm nhập địa bàn tỉnh Hà Tĩnh để điều tra, nắm các hoạt động của ta như chuyển quân, vận tải lượng thực, vũ khí, xây dựng các công trình quốc phòng... chuẩn bị cho kế hoạch đánh phá miền Bắc. Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao, lực lượng vũ trang tỉnh và quần chúng Nhân dân đã phát hiện bắt gọn và tiêu diệt hầu hết các toán gián điệp biệt kích của địch, riêng trong năm 1963 lực lượng vũ trang nhân dân xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn và lực lượng vũ trang nhân dân xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên đã bắt gọn và tiêu diệt hai toán biệt kích 14 tên, thu toàn bộ vũ khí, trang bị.
Để mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, đế quốc Mỹ đã sử dụng tối đa mọi phương tiện chiến tranh hiện đại đánh vào hậu phương của cả nước, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, Hà Tĩnh là một trong những trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ, nhiều nơi chúng tập trung đánh phá có tính chất hủy diệt như: Ngã ba Đồng Lộc, núi Nài, phà Linh Cảm, phà Bến Thủy, ngã ba Thình Lình... với tinh thần cảnh giác và anh dũng trong chiến đấu quân và dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 267 máy bay các loại, bắn chìm, bắn cháy 34 tàu chiến, tiêu diệt và bắt sống nhiều giặc lái. Trong đó trận phục kích đánh máy bay Mỹ bảo vệ trạm ra đa núi Nài ngày 26/3/1965 quân và dân Hà Tĩnh đã lập nên một chiến công vang dội. Đây là một trận chiến đấu không cân sức giữa một bên là lực lượng vũ trang nhân dân trang bị vũ khí thô sơ, một bên là không quân Mỹ với phương tiện chiến tranh hiện đại, nhưng với lòng dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, ta đã bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Chiến thắng núi Nài ngày 26/3/1965 đã cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta, tạo tiền đề vững chắc cho lực lượng vũ trang Hà Tĩnh lập công xuất sắc trong những trận đánh trả máy bay, tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ ở giai đoạn sau này.
Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, các lực lượng vũ trang địa phương còn huy động hàng chục vạn ngày công cùng với các lực lượng giao thông, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến đào đắp hàng triệu khối đất, đá để san lấp hố bom, khắc phục cầu đường; mở nhiều tuyến đường mới với chiều dài hơn 500km, sửa chữa 654km đường bị đánh phá, rà phá được gần 50.000 quả bom, mìn các loại, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn, giữ vững mạch máu giao thông, chi viện kịp thời cho các chiến trường đánh Mỹ.
Bên cạnh đó, nhiều đơn vị bộ đội Hà Tĩnh đã tình nguyện lên đường làm nhiệm vụ quốc tế ở các tỉnh Khăm Muồn và Bôlykhămxay của nước bạn Lào. Các đơn vị bộ đội Hà Tĩnh đã cùng với lực lượng vũ trang của bạn đánh 210 trận, giết 1750 tên địch, gọi hàng 350 tên, phá hủy 37 xe cơ giới bắn rơi 30 máy bay, giải phóng 54 làng bản, góp phần mở rộng vùng giải phóng ở khu vực Trung Hạ Lào và đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Lào đến toàn thắng.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hà Tĩnh đã bổ sung một lực lượng lớn cho quân đội gồm 9 vạn thanh niên nam, nữ, chiếm hơn 10% tổng dân số. Riêng trong quý I năm 1975 lực lượng vũ trang và toàn dân đã huy động 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 5 đại đội, với 8.091 cán bộ, chiến sỹ và 14.901 tân binh lên đường vào Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trong kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tỉnh Hà Tĩnh đã có rất nhiều tấm gương chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nhiều tên đất, tên làng đã ghi dấu chiến công vào lịch sử của quê hương, đất nước. Tiêu biểu có đội nữ dân quân xã Kỳ Phương (Kỳ Anh), núi Nài (Thành phố Hà Tĩnh)… Các anh hùng: Phan Đình Giót, Dương Chí Uyển, La Thị Tám, Vương Đình Nhỏ, Nguyễn Xuân Lực… đặc biệt Tiểu đội 4 - Đại đội 552 Thanh niên xung phong (10 cô gái thanh niên xung phong ở ngã 3 Đồng Lộc) đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tô thắm truyền thống anh hùng của quê hương Hà Tĩnh và dân tộc Việt Nam.
Những thắng lợi to lớn giành được trong thời thời kỳ 1965 - 1975 chứng tỏ Nhân dân Hà Tĩnh kiên cường trong chiến đấu, đảm bảo giao thông phục vụ đắc lực cho chiến trường miền Nam; dũng cảm, cần cù, sáng tạo trong lao động xây dựng quê hương, góp phần xứng đáng cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và tiếp tục đưa Hà Tĩnh phát triển trong giai đoạn mới.
IV. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử này, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc”.
2. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu:
Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu với đường lối chính trị, quân sự, độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo, phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến.
Hai là, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân cả nước, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ba là, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động; của lòng yêu nước nồng nàn - khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của đồng bào ta.
Bốn là, lòng trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với sự chỉ huy thao lực của các vị Tướng lĩnh tài ba.
Năm là, tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế, của liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
3. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là: (1) Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; (2) Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; (3) Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo; (4) Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc; (5) Căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; (6) Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; (7) Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại; (8) Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
V. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN 50 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - TIỀN ĐỀ CHO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
1. Thành tựu của đất nước
1.1. Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Một sự kiện quan trọng diễn ra sau ngày miền Nam giải phóng là cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong đó, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam do tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari ở Campuchia gây ra ngay sau khi Việt Nam vừa mới giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Việt Nam chỉ kéo dài 2 năm (từ năm 1977 đến 1979) nhưng hậu quả kinh tế, xã hội của nó khá nặng nề đối với Việt Nam. Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ.
Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ; sau gần 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
- Về chính trị: Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.
- Về kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 433,7 tỷ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 4.323 USD, gấp 58 lần sau ba thập kỷ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,93% năm 2023. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao rõ rệt.
Năm 2024, tăng trưởng cả năm đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư. Quy mô GDP theo giá hiện hành ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 786,29 tỷ USD tăng 15,4%, xuất siêu 24,77 tỷ USD, là năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Thu NSNN ước cả năm đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng tăng 19,8% so với dự toán. Đầu tư phát triển đạt kết quả tích cực. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới với 38,23 tỷ USD đăng ký, vốn thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4%, cao nhất trong nhiều năm qua; khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam ước đạt 17,6 triệu lượt, tăng 39,5% so với năm 2023. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực: kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc, định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đến nay có gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2014... Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được nâng lên. Chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Sức khỏe của Nhân dân được quan tâm chăm sóc; việc khám, chữa bệnh tiếp cận được nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Năm 2024, an sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời sống người dân được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143. Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,2% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các cấp được cải thiện. Ứng dụng khoa học - công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên ; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được tăng cường. Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.
- Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được bảo vệ vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều mặt. Xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hình thành thế trận an ninh nhân dân, bố trí chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, đưa công an nhân dân gần dân, sát dân để phục vụ. Có đối sách, giải pháp phù hợp, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống, không để xảy ra bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
- Về đối ngoại: Hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài, tạo cục diện đối ngoại mới, rộng mở, thuận lợi cho an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, thể hiện vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác chủ chốt, các nước lớn; đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế; đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp tại các cơ chế hợp tác đa phương quan trọng. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, khai thác hiệu quả các cơ hội hợp tác kinh tế. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất, chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.
1.2. Sau giải phóng, là vùng đất đã trải qua hơn 20 năm du nhập lối sống Mỹ nên vấn đề tệ nạn xã hội ở Nam Bộ khá nan giải với số lượng lớn người thất nghiệp, thương, phế binh, người nhập cư, người nghiện ma túy, trẻ mồ côi, người ăn xin, cờ bạc buôn lậu… Khắc phục khó khăn để vươn lên cùng cả nước, sau 50 năm, Nam Bộ đã đạt được nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế các vùng tiếp tục chuyển dịch tích cực; giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy, một số di tích văn hoá lịch sử được tu bổ, tôn tạo; hệ thống giáo dục, đào tạo được quan tâm đầu tư, mạng lưới y tế được củng cố; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước được chú trọng, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống Nhân dân ngày được nâng cao, trong đó tốc độ tăng trưởng GRDP các vùng của Nam Bộ những năm gần đây đạt mức khá.
Riêng với Thành phố Hồ Chí Minh, vinh dự mang tên Bác từ năm 1976, Thành phố đã bứt phá mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Đặc biệt, với quy mô và tiềm lực vượt trội, Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng cả nước vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước phát triển theo chiều sâu dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, phát triển văn hoá, xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng nâng lên, sớm xác lập và giữ vững vai trò đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước và ngày càng có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.
2. Những thành tựu của Hà Tĩnh
Giai đoạn 1976 - 1991 tỉnh Nghệ Tĩnh hợp nhất Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh đã phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, bên cạnh những kết quả đạt được, nhất là việc huy động nhân tài, vật lực để xây dựng và phát triển, đã phát sinh không ít khó khăn.
Nền kinh tế có quy mô nhỏ, phân tán, tự cung, tự cấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt ở các ngành có thế mạnh như nông, lâm, thủy hải sản. Tình trạng mất cân đối lớn giữa sản xuất và đời sống, giữa sản xuất và lưu thông, giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa hàng và tiền, giữa các vùng, miền…, làm cho sản xuất trên nhiều lĩnh vực trì trệ, hiệu quả thấp, kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ Tĩnh dần lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống Nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Năm 1991, sau 15 năm hợp nhất với Nghệ An, tỉnh Hà Tĩnh có 09 đơn vị hành chính (gồm 08 huyện, 01 thị xã với 259 đơn vị hành chính cấp xã), Tỉnh lỵ đặt tại Thị xã Hà Tĩnh. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khi được tái lập có 60.712 đảng viên (chiếm 5% dân số), 760 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có khoảng 90% là tổ chức cơ sở đảng vững mạnh và khá.
Trong 5 năm 1991 - 1995, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khoá XIII, với tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, cùng với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh đã giành được nhiều thành quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân hàng năm đạt 11,3%, nâng thu nhập bình quân đầu người đạt 149 USD (1995). Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 7,05%; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 1,5 lần, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP từ 63,5% xuống còn 51%, tăng giá trị công nghiệp, xây dựng từ 10,7% lên 14%, dịch vụ từ 25,8% lên 35%; sản xuất lương thực đạt 46 vạn tấn, bình quân đầu người 370kg, mức cao nhất trong 6 tỉnh Bắc Trung bộ.
Từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2006 - 2010), Hà Tĩnh thực sự
chuyển mình, mục tiêu “xây dựng Hà Tĩnh từ một tỉnh nông nghiệp sớm trở thành
tỉnh có công nghiệp - dịch vụ phát triển” đạt nhiều kết quả tích cực, kinh tế phát triển nhanh; văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; quốc phòng - an ninh được đảm bảo; quan hệ hợp tác đối ngoại ngày càng mở rộng, phát huy hiệu quả; công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng cường. Nhờ thu hút đầu tư đột phá trong lĩnh vực công nghiệp đã tạo “cú hích” đưa kinh tế Hà Tĩnh tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, riêng giai đoạn 2011 - 2015 tăng trưởng bình quân trên 18%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm kỳ 2015 - 2020, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự nỗ lực
lớn, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và toàn dân, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,75% (thuộc nhóm 20 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tỷ trọng nông nghiệp còn 12,2%, công nghiệp - xây dựng 45,5%, dịch vụ 42,3%). Toàn tỉnh có trên 7.500 doanh nghiệp, gần 6 vạn hộ kinh doanh; thu hút được trên 1.300 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký trên 370.000 tỷ đồng tương đương trên 16 tỷ USD; là tỉnh đứng thứ 9 cả nước về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 70 dự án có tổng vốn đầu tư gần 13 tỷ USD. Hà Tĩnh có 17 nước và vùng lãnh thổ vào đầu tư. Tỉnh có 02 khu kinh tế (Khu kinh tế Vũng Áng, KKT Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo); 25 khu, cụm công nghiệp; có Cụm cảng nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương với 59 cầu cảng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch là một trong ba đầu mối giao thương biển quốc tế của Việt Nam thiết kế cho tàu có tải trọng lên đến 20 - 30 vạn tấn. Theo định hướng phát triển, Khu kinh tế Vũng Áng được quy hoạch xây dựng trung tâm logistics tại Vũng Áng - Sơn Dương là trung tâm Logistics hạng I cấp quốc gia và quốc tế.
Trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, Hà
Tĩnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, đạt được những kết quả tích cực, trở thành phong trào sâu rộng, bền vững của toàn dân. Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển toàn diện. Giáo dục - đào tạo đạt kết quả nổi bật, nhất là tỷ lệ học sinh giỏi quốc gia. Thể thao đạt nhiều thành tích cao trong các giải đấu trong nước, quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được tăng cường. Công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội đạt được kết quả rõ nét; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,53%, gần bằng bình quân cả nước. Hợp tác đối ngoại tiếp tục phát huy hiệu quả. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị được tăng
cường và đi vào chiều sâu. Tỉnh đã tập trung thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về sắp xếp, tinh gọn bộ máy. Đến hết năm 2019, tỉnh đã hoàn thành việc sắp xếp 80 đơn vị hành chính cấp xã (theo tinh thần Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị), hình thành 34 xã mới, giảm 46 xã. Toàn tỉnh có 216 xã; các đơn vị hành chính cấp xã sau sáp nhập hoạt động ổn định và đã tổ chức thành công đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX...
Nhiệm kỳ 2020 - 2025, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng, giá trị văn hóa và sức mạnh con người Hà Tĩnh, tỉnh đã thực hiện khá hiệu quả “mục tiêu kép”, khắc phục khó khăn, thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch Covid-19, từng bước phục hồi kinh tế, lấy lại đà tăng trưởng, văn hóa - xã hội đạt kết quả toàn diện, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hoạt động đối ngoại được tăng cường, công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị đạt kết quả tích cực.
Giai đoạn 2021 - 2025 tăng trưởng kinh tế ước đạt gần 6%/năm. Tổng thu
ngân sách ước đạt 88.500 tỷ đồng, gấp 1,6 lần giai đoạn 2016 - 2020, tăng bình quân 8%, tăng tỷ trọng thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cơ cấu thu nội địa. Quy mô nền kinh tế (GRDP) tăng gấp 1,5 lần, GRDP bình quân đầu người tăng từ 63,6 triệu đồng lên 91 triệu đồng; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 38,8 triệu đồng lên 53 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp còn 13,4%, công nghiệp - xây dựng 41,9%, dịch vụ 44,7%. Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Năm 2024, tỉnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư 20 dự án có tổng vốn gần 15.300 tỷ đồng; khởi công dự án VSIP tại huyện Thạch Hà giai đoạn 1 số vốn đầu tư 65 triệu USD; khởi động dự án Nhà máy sản xuất ô tô điện VinFast số vốn đầu tư 7.300 tỷ đồng; dự án Khu công nghiệp Vinhomes Vũng Áng quy mô sử dụng đất 965 ha với tổng vốn đầu tư hơn 13.200 tỷ đồng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thành lập mới 1.250 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp toàn tỉnh lên gần 12.500. Các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đang dần được “lấp đầy” với nhiều nhà máy được xây dựng và đi vào hoạt động, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến nay toàn tỉnh có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới, có 65 xã nông thôn mới nâng cao, 17 xã nông thôn mới kiểu mẫu; 9/12 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực. Hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, dữ liệu số tiếp tục được quan tâm đầu tư, từng bước hoàn thiện theo hướng hiện đại, đảm bảo phục vụ hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc và phục vụ tốt cho người dân, doanh nghiệp. Kết cấu hạ tầng giao thông được triển khai thực hiện đồng bộ; các dự án trọng điểm của cả nước đoạn đi qua địa bàn tỉnh Hà Tĩnh được tập trung chỉ đạo quyết liệt, đảm bảo và vượt tiến độ Trung ương giao như dự án: Đường điện 500kV mạch 3 (Đoạn Quảng Trạch - Phố Nối đi qua 9 tỉnh, trong đó đoạn đi qua Hà Tĩnh có quy mô lớn nhất trong các tỉnh) bàn giao đúng tiến độ; Tuyến cao tốc Bắc - Nam đoạn qua Hà Tĩnh dài 107,28 km dần được hoàn thành Chủ động, đi trước trong xây dựng và triển khai Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Lĩnh vực văn hóa, thể thao đạt thành tích nổi bật. Công tác bảo tồn giá trị di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm; có thêm 6 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, Mộ và nhà thờ Lê Hữu Trác được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đã tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 120 năm ngày sinh Tổng Bí thư Trần Phú, 110 năm ngày sinh đồng chí Lý Tự Trọng, 10 năm Dân ca Ví, Giặm được UNESCO vinh danh; tổ chức kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và lễ đón nhận bằng vinh danh của UNESCO. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh đạt kết quả tốt. Thể thao thành tích cao tiếp tục được đầu tư, giành nhiều huy chương; thể thao quần chúng phát triển mạnh. Giáo dục - đào tạo đạt kết quả khá toàn diện. Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; triển khai Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018. Chất lượng giáo dục đại trà chuyển biến tích cực; giáo dục mũi nhọn đạt kết quả cao. Phổ cập giáo dục được duy trì vững chắc. Thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các tuyến; tiếp cận được nhiều dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu, dịch vụ tuyến Trung ương, nhiều kỹ thuật mới và hiện đại được chuyển giao cho các bệnh viện, góp phần giảm tải bệnh viện tuyến trên. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai hiệu quả. Quan tâm chính sách người có công, hàng năm chi trả gần 1.000 tỷ đồng cho các đối tượng, xử lý dứt điểm hồ sơ tồn đọng. Ban hành chính sách hỗ trợ thu nhập cho người có công thuộc hộ nghèo; hoàn thành mục tiêu không còn người có công thuộc hộ nghèo. Đến nay, tỉnh đã huy động xã hội hóa xây dựng 105 nhà văn hóa cộng đồng và hơn 8.000 nhà ở kiên cố cho hộ nghèo và gia đình chính sách; hoàn thành chương trình hỗ trợ 1.000 nhà ở của Bộ Công an và tiếp nhận hỗ trợ gần 700 nhà ở của Bộ Quốc phòng và các doanh nghiệp cho chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát. Quỹ khuyến học nhận hỗ trợ thêm 63 em hoàn cảnh khó khăn học đại học, nâng tổng hỗ trợ lên 426 em học đại học, trong đó, tỉnh hỗ trợ 275 em, các huyện hỗ trợ 151 em, với mức hỗ trợ 100 - 150 triệu đồng/em trong suốt 4 - 5 năm học Đại học.
Chú trọng ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số. Triển khai tốt các nhiệm vụ, dự án khoa học công nghệ cấp quốc gia, cấp tỉnh. Nghiên cứu đầu tư Trung tâm điều hành, giám sát an toàn, an ninh mạng; hệ thống thông tin nguồn cấp tỉnh; hoàn thiện tốt các hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối quốc gia.
Tích cực, chủ động nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại. Thắt chặt mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các tỉnh của nước bạn Lào. Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, đại sứ quán các nước tại Việt Nam và cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài để mở rộng hợp tác quốc tế, kêu gọi, thu hút đầu tư. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm.
Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy nghiêm túc, kịp thời, đảm bảo thiết thực, hiệu quả. Tiếp tục triển khai hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW, Kết luận số 01- KL/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đào tạo, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên, nhân dân được quan tâm đổi mới theo hướng sát nhiệm vụ chính trị và xu thế phát triển. Tổ chức các sự kiện chính trị trọng đại của quê hương, đất nước, tạo ấn tượng tốt đẹp về văn hóa và con người Hà Tĩnh với bạn bè trong nước, quốc tế. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII, khóa XIII, Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” được quan tâm. Việc tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay được chỉ đạo thực hiện quyết liệt theo các văn bản chỉ đạo của Trung. Việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025 được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện các bước theo quy trình quy định tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và Nhân dân. Sau sắp xếp, Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 01 thành phố (Hà Tĩnh), 02 thị xã (Hồng Lĩnh, Kỳ Anh) và 09 huyện, giảm 01 huyện (Lộc Hà).
Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực
nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Nêu cao vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đối với việc củng cố, xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; khắc phục tình trạng hình thức, chiếu lệ, tăng sự chủ động, khách quan, độc lập, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Công tác dân vận được chú trọng; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, chính quyền với Nhân dân được tăng cường. Công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tập trung chỉ đạo, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.
VI. PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.
1. Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Nhận diện sớm, phát huy nhanh mọi thời cơ, thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ chiến lược, trong đó: Phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lòng yêu nước cách mạng, tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vững bước vào kỷ nguyên mới, đạt mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Đẩy mạnh, xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Tự chủ chiến lược phát triển; phát huy nguồn nội lực là chủ đạo, nguồn lực quốc tế là quan trọng; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.
4. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp tinh gọn đơn vị hành chính các cấp; hoàn thiện nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị gắn với cơ cấu lại và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “Dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân; tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò làm chủ và chủ thể của Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn mới.
Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên; đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở bám sát thực tiễn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; cải cách triệt để thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm". Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.
5. Luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng “thế trận lòng dân”, lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
6. Giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Kiên trì và sáng tạo thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả. Chủ động tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; phấn đấu trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích chung của hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới./.
BAN TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TRUNG ƯƠNG
NƯỚC VIỆT NAM LÀ MỘT, DÂN TỘC VIỆT NAM LÀ MỘT
Thời báo VTV trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một".
Thời khắc lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một sự kiện trọng đại - ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối. Đó không chỉ là chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy khó khăn gian khổ, mà còn là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí độc lập, tự cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khát vọng về một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do là ngọn lửa thiêng hun đúc tinh thần dân tộc suốt hàng nghìn năm lịch sử. Từ khi Vua Hùng dựng nước cho tới hôm nay, trải qua bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giữ gìn giang sơn, bờ cõi, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, khát vọng ấy luôn là sức mạnh tinh thần không gì sánh nổi, thôi thúc các tầng lớp nhân dân, muôn người như một, chung sức, đồng lòng, vượt mọi gian nan, thử thách để giành lại nền độc lập vào năm 1945, đánh đuổi thực dân vào năm 1954 và thống nhất đất nước vào năm 1975.
Thắng lợi của dân tộc anh hùng
Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ có ý nghĩa kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài và khốc liệt nhất trong lịch sử hiện đại Việt Nam, mà còn là mốc son chói lọi trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đó là chiến thắng của niềm tin, của ước nguyện độc lập, tự do và thống nhất đất nước; chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; chiến thắng của chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và của tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu, bất khuất ngàn đời của nhân dân Việt Nam, của các lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Chiến thắng 30/04/1975 là thành quả quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam về một đất nước thống nhất, không thể bị chia cắt bởi bất kỳ thế lực nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc – đã khẳng định chân lý bất diệt: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
Lời của Bác không chỉ là tuyên ngôn thiêng liêng về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là ngọn đuốc soi đường, là nguồn cảm hứng, truyền sức mạnh cho mọi thế hệ người Việt Nam trong suốt những năm tháng chiến tranh gian khổ và khốc liệt. Chiến thắng 30/04/1975 là minh chứng sống động cho triết lý của thời đại "Không có gì quí hơn độc lập tự do".
Không chỉ là thắng lợi quân sự, Chiến thắng 30/04/1975 còn là sự kết tinh của trí tuệ, bản lĩnh và khát khao mãnh liệt về một nền hòa bình bền vững, về quyền tự quyết của một dân tộc từng bị đô hộ, chia cắt và áp bức. Như lời của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn "chiến thắng đó không phải của riêng ai, mà của cả dân tộc Việt Nam". Và như nhà thơ Tố Hữu từng viết "Không nỗi đau nào của riêng ai/ Của chung nhân loại chiến công này".
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 cũng đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trên trường quốc tế, cổ vũ sâu sắc phong trào giải phóng dân tộc tại nhiều khu vực Á, Phi, Mỹ Latin; khích lệ các dân tộc đứng lên chống lại chủ nghĩa thực dân mới và giành lại quyền tự do, độc lập. Đó là chiến thắng của công lý trước cường quyền, lời khẳng định trước cộng đồng quốc tế rằng: một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có chính nghĩa, đoàn kết và ý chí kiên cường, với sự ủng hộ, giúp đỡ trong sáng của bạn bè quốc tế, của các lực lượng tiến bộ và của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới thì chắc chắn sẽ chiến thắng những thế lực mạnh hơn gấp nhiều lần.
Trong suốt 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân và đế quốc (1945–1975), dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với muôn vàn gian khổ, hy sinh, mất mát nhưng chưa bao giờ, ý chí về một nước Việt Nam độc lập, thống nhất bị lay chuyển.
Ý chí, tâm nguyện thống nhất đất nước
Trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc khánh 02/09/1955, Bác Hồ khẳng định: "Nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, vì nước ta là một khối, không ai chia cắt được". Trong thư gửi đồng bào cả nước năm 1956, Bác viết "Thống nhất nước nhà là con đường sống của Nhân dân ta". Khi chiến tranh đang ở giai đoạn cam go, ác liệt nhất, ngày 17/07/1966, Người tuyên bố đanh thép rằng "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Và đúng như vậy, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, quân dân Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh hiện đại, với lòng tin sắt đá vào sức mạnh của chính nghĩa và tinh thần độc lập dân tộc.
Tuyên ngôn "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một chân lý, một định hướng chiến lược, mà còn là mệnh lệnh từ trái tim của cả dân tộc. Trong khói lửa chiến tranh, câu nói ấy trở thành nguồn sức mạnh to lớn, truyền cảm hứng mạnh mẽ, tạo động lực cho hàng triệu người Việt Nam bước ra mặt trận với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Lời của Bác là lời hiệu triệu thiêng liêng, là biểu tượng của lòng quyết tâm vượt qua mọi đau thương, gian khổ, để giành bằng được độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất cho đất nước và hạnh phúc ấm no cho Nhân dân.
Trong suốt hơn 30 năm kháng chiến và kiến quốc, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, biết bao gia đình mất mát người thân, làng mạc, đô thị bị tàn phá, bao thế hệ thanh niên phải tạm gác ước mơ học tập, hoài bão tương lai để lên đường bảo vệ Tổ quốc với lời thề "chưa hết giặc là ta chưa về". Những người mẹ tiễn con, vợ tiễn chồng ra trận mà không hẹn ngày trở lại. Những em nhỏ lớn lên trong mưa bom, bão đạn, học chữ dưới hầm, ăn ngô, khoai, sắn thay cơm. Biết bao bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã ngã xuống trên dải đất hình chữ S của Tổ quốc, những chiến sĩ biệt động thành chiến đấu giữa lòng địch, dân quân du kích ở bưng biền, làng bản, những chiến sĩ giải phóng quân vượt qua Bến Hải, vượt Trường Sơn... tất cả đều mang trong mình một niềm tin mãnh liệt: dân tộc Việt Nam sẽ giành lại quyền làm chủ đất nước mình, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.
Chiến thắng 30/04/1975 là thành quả kết tinh từ lý tưởng và ý chí thép của một dân tộc không bao giờ bị khuất phục, từ máu xương của hàng triệu người con đất Việt, từ tình yêu quê hương, đất nước, từ bản lĩnh, niềm tin chiến thắng và quyết tâm không bao giờ lùi bước.
Tròn nửa thế kỷ đã đi qua kể từ ngày nước non liền một dải, nhưng những âm hưởng của khúc khải hoàn vẫn ngân nga trong tâm hồn dân tộc Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm sự kiện trọng đại này, chúng ta thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế, người đã đặt nền móng tư tưởng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước; tri ân và tưởng nhớ các đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng, các Anh hùng liệt sỹ, nhân sĩ, trí thức, đồng bào và chiến sỹ trên khắp mọi miền Tổ quốc đã anh dũng chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng cao đẹp đó. Các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ công ơn và sự hy sinh to lớn vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân và vì sự trường tồn, phát triển của dân tộc.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với bạn bè quốc tế - các lực lượng tiến bộ, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các tổ chức nhân đạo và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới - đã đồng hành, giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam trong suốt những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp tái thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh. Tình cảm và sự hỗ trợ chí nghĩa, chí tình, vô tư trong sáng đó sẽ mãi mãi được nhân dân Việt Nam trân trọng, yêu quý và khắc ghi trong trái tim mình.
Nửa thế kỷ khôi phục, hàn gắn và phát triển
Trong hơn một thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam đã trải qua những trang sử bi tráng, phải gánh chịu biết bao đau thương, mất mát dưới ách đô hộ, áp bức của thực dân, phong kiến và đặc biệt là hai cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hơn ba thập kỷ. Chiến tranh không chỉ lấy đi sinh mạng của hàng triệu người, mà còn để lại những di chứng sâu sắc về thể chất, tinh thần, kinh tế xã hội và môi trường, ảnh hưởng đến cả những thế hệ sinh ra khi tiếng súng đã ngưng. Không có vùng đất nào trên quê hương Việt Nam không có đau thương; không có gia đình nào mà không gánh chịu những mất mát, hy sinh và cho đến nay chúng ta vẫn còn phải khắc phục hậu quả chiến tranh và bom mìn, chất độc da cam…
Nhưng thời gian, lòng nhân ái, đức vị tha đã giúp dân tộc ta từng bước vượt qua nỗi đau, chữa lành vết thương, gác lại quá khứ, tôn trọng sự khác biệt, hướng tới tương lai. Sau 50 năm đất nước thống nhất, chúng ta đã có đủ bản lĩnh, đủ niềm tin, sự tự hào và đủ bao dung để vượt qua đau thương cùng nhau nhìn về phía trước - để cuộc chiến tranh đã qua không còn là hố ngăn cách giữa những người con cùng một dòng máu Lạc Hồng.
Trên hành trình phát triển ấy, chính sách hòa hợp dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước xác định là lựa chọn chiến lược lâu dài, là trụ cột trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng ta hiểu rõ những nguyên nhân lịch sử dẫn đến chiến tranh - từ sự can thiệp, chia rẽ bên ngoài cho đến những âm mưu phá hoại tinh thần đoàn kết, gieo rắc thù hận vì mưu đồ chính trị. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng: mọi người Việt Nam, dù ở trong nước hay ngoài nước, dù từng đứng ở phía nào của lịch sử, đều cùng mang một cội nguồn, một ngôn ngữ, một tình yêu dành cho quê hương, đất nước.
Những năm qua, trong các chuyến công tác tới hầu khắp các châu lục, tôi đã có nhiều dịp gặp gỡ hàng ngàn đồng bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài - từ những trí thức trẻ lập nghiệp tại châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Đại Dương đến những doanh nhân thành đạt, nghệ sĩ nổi tiếng, người lao động bình dị ở các "miền đất mới", kể cả nhiều người thuộc "phía bên kia" trước đây. Mỗi cuộc gặp đều để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc: dù có thể khác biệt về quan điểm chính trị, trải nghiệm lịch sử hay điều kiện sống, họ đều mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, đều là "con dân đất Việt" và nỗi nhớ da diết với hai tiếng Quê hương.
Tôi từng chứng kiến nhiều cuộc gặp gỡ đầy cảm động giữa các cựu chiến binh Việt Nam và cựu binh Hoa Kỳ – những người từng đứng ở hai bên chiến tuyến, từng cầm súng đối đầu, nay có thể bắt tay, trò chuyện, chia sẻ với nhau bằng sự thấu hiểu chân thành và không còn mặc cảm. Ngày hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ - từ cựu thù - đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện, cùng hợp tác vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì an ninh và ổn định khu vực. Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam - cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước thống nhất, phồn vinh - lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn cách.
Hòa hợp dân tộc không có nghĩa là quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn hơn: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh vượng, để các thế hệ mai sau không bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chia ly và hận thù, mất mát như cha ông từng đối mặt.
Chúng ta tin tưởng rằng, mọi người con đất Việt - dù sinh sống ở đâu, dù quá khứ thế nào - đều có thể đồng hành, chung sức, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn nhất quán mở rộng vòng tay, trân trọng mọi đóng góp, lắng nghe mọi tiếng nói xây dựng, đoàn kết từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài - những người đang góp phần kết nối Việt Nam với thế giới.
Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai. Quá khứ là để ghi nhớ, để tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và phát triển. Đó là lời hứa danh dự của thế hệ hôm nay với những người đã ngã xuống, là tâm nguyện chung của một dân tộc từng trải qua nhiều đau thương nhưng chưa bao giờ khuất phục.
Cách đây 50 năm, dân tộc Việt Nam đã viết nên một bản anh hùng ca chói lọi bằng ý chí sắt đá và bản lĩnh kiên cường - đó là bản hòa ca của ý chí, quyết tâm, thống nhất và hòa bình. Nửa thế kỷ sau, chính dân tộc ấy đang tiếp tục viết nên một bản hùng ca mới - bản hòa ca của đổi mới, hội nhập, phát triển và ý chí vươn lên mạnh mẽ trong thế kỷ XXI. Trước đây, không một người Việt Nam chân chính nào muốn đất nước mình bị chia cắt. Ngày nay, chắc chắn không một người Việt Nam chân chính nào lại không mong đất nước mình ngày càng hùng cường, thịnh vượng, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Nhìn về phía trước - kế tục và kiến tạo, đổi mới và phát triển
Hơn ai hết, thế hệ hôm nay hiểu rõ rằng độc lập và thống nhất không phải là cái đích cuối cùng, mà là điểm khởi đầu cho một hành trình mới: hành trình xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, giàu mạnh, văn minh, phát triển và trường tồn. Nếu như thế hệ cha anh đã khắc ghi chân lý "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" bằng những hy sinh mất mát, thì thế hệ hôm nay phải biến lý tưởng đó thành động lực phát triển, thành đôi cánh vươn lên trong thời đại mới.
Tinh thần thống nhất đất nước - từng là niềm tin và ý chí sắt đá để vượt qua khó khăn, thử thách, mưa bom, bão đạn - nay phải trở thành quyết tâm chính trị, ý chí đổi mới và hành động cụ thể để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Phải làm cho mỗi người Việt Nam, dù ở đâu, dù làm gì, đều tự hào về đất nước, tin tưởng vào tương lai, và có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung.
Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, khó lường, Việt Nam cần phải có bản lĩnh vững vàng, tỉnh táo, không để bị cuốn vào những vòng xoáy địa - chính trị hay rơi vào thế bị động trước các xung đột quốc tế. Mỗi khúc quanh của lịch sử thế giới đều có thể trở thành cơ hội hoặc thách thức lớn cho các quốc gia nhỏ nếu chuẩn bị tốt hoặc không tốt nội lực. Dân tộc Việt Nam hơn ai hết hiểu rất rõ hậu quả tàn khốc của chiến tranh, chúng ta là dân tộc yêu chuộng hòa bình, không bao giờ muốn chiến tranh xảy ra và sẽ làm mọi điều để chiến tranh không xảy ra. Nhưng, nếu "kẻ thù buộc chúng ta ôm cây súng" thì chúng ta sẽ vẫn là người chiến thắng. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng một nền kinh tế tự lực, tự cường; một nền quốc phòng - an ninh toàn dân, toàn diện và hiện đại; một hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, một xã hội phát triển, đoàn kết, văn hóa và nhân văn.
Muốn như vậy, nhất thiết phải phát huy trí tuệ và sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài - bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân. Trong kỷ nguyên số, kỷ nguyên của kết nối toàn cầu, mỗi người Việt Nam ở khắp năm châu đều có thể góp phần vào công cuộc dựng xây đất nước bằng chính tri thức, sự sáng tạo, lòng yêu nước và trách nhiệm công dân.
Kỷ nguyên mới mà chúng ta đang bước tới - với công nghệ trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh và phát triển bền vững - đòi hỏi phải có tư duy mới, mô hình phát triển mới, con người mới. Trước mắt, chúng ta còn nhiều thách thức về thể chế, năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực, an ninh môi trường, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và cả những nguy cơ an ninh phi truyền thống. Nhưng lịch sử đã chứng minh: dân tộc Việt Nam chưa từng lùi bước trước gian nan, khó khăn, thách thức. Vấn đề là chúng ta có đủ dũng khí để thay đổi, đủ ý chí để vươn lên, và đủ đoàn kết để biến khó khăn thành động lực phát triển hay không.
Thế hệ hôm nay - từ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đến công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, học sinh, sinh viên, mọi tầng lớp nhân dân đều là con Rồng cháu Tiên - cần ý thức sâu sắc rằng: chúng ta đang thừa hưởng những giá trị di sản vĩ đại từ cha ông, và chúng ta có trách nhiệm làm rạng danh đất nước trong thời đại mới. Mỗi hành động hôm nay phải xứng đáng với máu xương đã đổ xuống, với những hy sinh mất mát mà cả dân tộc đã từng gánh chịu.
Chúng ta không thể để đất nước tụt hậu. Chúng ta không thể để dân tộc đánh mất cơ hội. Chúng ta không thể để lặp lại những vòng xoáy của lịch sử. Vì vậy, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết. Chúng ta phải hành động vì tương lai lâu dài chứ không vì thành tích ngắn hạn. Phải kiên định giữ gìn độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định. Đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ trong tư duy phát triển, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng Xã hội XHCN hiện đại.
Nhìn về phía trước, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào tin tưởng vào sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã bao lần đánh thắng ngoại xâm và đứng dậy từ chiến tranh, khẳng định mình trước lịch sử và trước thế giới. Với truyền thống nghìn năm dựng nước và giữ nước, với khát vọng vươn lên không ngừng, với thế hệ trẻ tài năng, hoài bão, yêu nước, sáng tạo và đầy bản lĩnh - Việt Nam nhất định sẽ thành công.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của những dân tộc biết làm chủ vận mệnh của mình. Và dân tộc Việt Nam - với tất cả những bài học từ quá khứ, với tất cả sự đoàn kết hôm nay - nhất định sẽ viết tiếp những chương mới rực rỡ trong hành trình phát triển của mình. Vì một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh, văn minh, thịnh vượng, có vị thế và tiếng nói quan trọng trong cộng đồng quốc tế.
Nguồn: https://vtv.vn/
BÀI VIẾT CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường đã có bài viết chia sẻ về những bài học xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trong kỷ nguyên mới.
Chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ nhưng những bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.
Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường đã có bài viết chia sẻ về những bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trong kỷ nguyên mới.
THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC - BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VỮNG MẠNH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, là một thắng lợi vĩ đại của lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1]. Thắng lợi vĩ đại đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả của nhiều nhân tố, đó là: Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chiến tranh, phương pháp cách mạng đúng đắn; là tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta trong suốt 21 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, hy sinh; là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự chi viện to lớn của hậu phương miền Bắc và ý chí quật khởi của tiền tuyến lớn miền Nam; là tình đoàn kết chiến đấu, gắn bó keo sơn giữa ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia, cùng với sự giúp đỡ to lớn, quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình, ủng hộ, cổ vũ của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Đóng góp vào thắng lợi vĩ đại đó có những chiến công xuất sắc của lực lượng vũ trang nhân dân, sự hy sinh của hàng triệu anh hùng, liệt sỹ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) ghi nhận: “Đại hội tuyên dương cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, suốt mấy chục năm ròng đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, từ gậy tầm vông, súng kíp đã lớn lên thành những binh đoàn hùng mạnh, đánh thắng những kẻ thù hung ác, lập được những chiến công oanh liệt từ trận Điện Biên Phủ đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của quân đội ta, cùng với toàn dân viết nên bản anh hùng ca kỳ diệu của chiến tranh cách mạng Việt Nam!”[2].
Để thực hiện thành công những nhiệm vụ chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phát triển lớn mạnh, làm nòng cốt cùng toàn dân chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng những bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, nổi bật:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Đây không chỉ là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà còn là nguyên tắc bất di, bất dịch trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, Nhà nước ta. Ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 mở rộng (tháng 3/1957) đã ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Nghị quyết xác định phương châm “tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hóa và hiện đại hóa”[3] và xác định xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ: “yếu tố quyết định là cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ”[4].
Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, sự đùm bọc, nuôi dưỡng, giúp đỡ của nhân dân, Quân đội ta đã liên tục phát triển, ngày càng lớn mạnh, có đủ các thành phần, lực lượng Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân và các quân đoàn chủ lực; cùng các lực lượng khác và toàn dân tạo nên sức mạnh tổng hợp lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Mỹ-Ngụy.
Cùng với lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng Công an nhân dân và Dân quân tự vệ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng Công an nhân dân thành lực lượng chuyên chính tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, liên hệ mật thiết với quần chúng, một lực lượng chiến đấu vững mạnh, có tính chất vũ trang, có tổ chức chặt chẽ, tinh thông về nghiệp vụ và có trình độ khoa học, kỹ thuật; đặt lực lượng Công an nhân dân dưới sự lãnh đạo “trực tiếp, toàn diện và thống nhất về mọi mặt”[5] của Đảng.
Đối với lực lượng Dân quân tự vệ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta chủ trương “lấy củng cố làm chủ yếu, đồng thời phát triển từng bước vững chắc ở khắp mọi nơi, trọng tâm là các vùng xung yếu," “các xí nghiệp, công, nông trường mới xây dựng đều phải có tổ chức tự vệ, có cán bộ phụ trách chỉ đạo chặt chẽ”[6]; theo đó, lực lượng Dân quân tự vệ được xây dựng, phát triển vững chắc, rộng khắp, vừa bảo đảm lao động sản xuất, vừa bảo đảm nhiệm vụ trị an, tác chiến khi cần thiết.
Dự báo thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến động, diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó dự báo. Trong nước, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là tiền đề quan trọng để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, đất nước còn phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, xuất hiện những vấn đề phức tạp mới, nhất là những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, trong xã hội chưa được giải quyết dứt điểm; các thế lực thù địch tăng cường chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Tình hình đó đòi hỏi việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc càng trở nên cấp thiết, có ý nghĩa quyết định quá trình phát triển, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang nhân dân.
Bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị bằng những chủ trương, giải pháp quyết liệt, đồng bộ, không ngừng, không nghỉ, toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Cùng với nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, Đảng, Nhà nước tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, gắn với xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân, gắn với tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; không để bị bị động, bất ngờ trước mọi tình huống.
Hai là, đặc biệt coi trọng xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân.
Quán triệt sâu sắc luận điểm của V.I.Lênin: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”[7] và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”[8], Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác xây dựng và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân và toàn dân, đặc biệt là trong cuộc kháng chống Mỹ, cứu nước, khi mà quân và dân ta phải chiến đấu chống lại kẻ thù hung bạo, có tiềm lực kinh tế và quân sự bậc nhất thế giới.
Đảng ta chỉ rõ: “Về mặt tư tưởng, phải quán triệt hơn nữa quan điểm trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh nhất định thắng lợi; phải bồi dưỡng ý chí kiên cường, tinh thần anh dũng chiến đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm giết giặc cứu nước, tiến tới hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; phải đề cao cảnh giác, khéo léo bảo toàn và che giấu lực lượng, chống phiêu lưu mạo hiểm, nóng vội; phải giáo dục ý thức thắng không kiêu, bại không nản”[9].
Để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, ác liệt, Đảng ta chủ trương trước hết phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, tiến hành chỉnh huấn chính trị trong toàn quân, củng cố lập trường giai cấp công nông, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước kết hợp chặt chẽ với tinh thần quốc tế chân chính, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng và bồi dưỡng chí khí chiến đấu; khắc phục tư tưởng giảm sút ý chí chiến đấu, công thần, kiêu ngạo, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Do xây dựng được nhân tố chính trị, tinh thần vững chắc, lực lượng vũ trang nhân dân đã không sợ gian khổ, hy sinh, không chịu khuất phục trước kẻ thù hung bạo, chiến đấu anh dũng, mưu trí, sáng tạo, lập nên những chiến công hiển hách, cùng toàn dân giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; làm rạng danh đất nước, con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân được tạo nên bởi nhiều nhân tố; trong đó, nhân tố chính trị, tinh thần là cơ bản nhất. Quán triệt quan điểm “Người trước, súng sau” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tình hình hiện nay tiếp tục xác định xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là vấn đề có tính nguyên tắc, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Quán triệt nguyên tắc này, trước hết, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân về chủ trương, đường lối quân sự, quốc phòng, an ninh của Đảng. Trên cơ sở thấu triệt quan điểm “bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên," lực lượng vũ trang nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thường xuyên nắm chắc tình hình, tham mưu và trực tiếp xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không để bị động bất ngờ, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, mất an ninh, trật tự, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Trước sự xuất hiện các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh mới, Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Công an Trung ương - Bộ Công an và cấp ủy, chỉ huy, chính quyền các cấp cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang nhân dân về mọi mặt; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Ba là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đủ về số lượng, có tổ chức, cơ cấu, thành phần đồng bộ, cân đối, hợp lý, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Nghị quyết của Bộ Chính trị (họp từ ngày 6 đến ngày 10/12/1962) về tình hình, phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam đã đề ra phương châm xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở miền Nam, trong đó xác định: “Phát triển rộng rãi du kích và dân quân, nâng cao chất lượng của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương”[10]; đồng thời, xác định rõ phương hướng và số lượng cụ thể của mỗi thứ quân cần tập trung xây dựng ở miền Nam.
Trong cuộc kháng chiến này, Đảng, Nhà nước ta xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực gồm các binh chủng và quân chủng. Trong đó, xây dựng các quân đoàn chủ lực làm lực lượng nòng cốt trên chiến trường miền Nam. Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân chủng Hải quân được xây dựng và phát triển ngày càng lớn mạnh, cùng nhân dân và các lực lượng khác đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc. Cùng với đó là việc tổ chức, phát triển các mặt trận, các khối chủ lực lớn ở các khu, bộ đội vận tải chiến lược trên đường Trường Sơn, đã làm cho bộ đội chủ lực thực sự là lực lượng chủ yếu để thực hiện chiến lược làm chủ và tiến công tiêu diệt địch trên cả nước, cùng toàn dân chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, bộ đội địa phương được xây dựng và phát triển nhanh chóng trên cả nước, có sự phát triển về chất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên miền Bắc, bộ đội địa phương được xây dựng đáp ứng với nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa với nhiều đơn vị bộ binh, phòng không, công binh, pháo binh được thành lập… Trên chiến trường miền Nam, tất cả các quận, huyện, thị xã, tỉnh, thành phố đều tổ chức bộ đội địa phương để phát triển đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, phát triển ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị).
Dân quân tự vệ được phát triển rộng khắp theo nguyên tắc có tổ chức đảng lãnh đạo, phù hợp với điều kiện của từng địa phương, công trường, nông trường, nhà máy, xí nghiệp, với quy mô vừa và nhỏ, phù hợp với các loại hình chiến tranh khác nhau, các tình huống khác nhau.
Việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã bảo đảm sự cân đối giữa các thứ quân, lực lượng, phù hợp với sự phát triển của đấu tranh vũ trang cách mạng, với vị trí chiến lược của từng thứ quân, phù hợp với đường lối chiến tranh nhân dân trong từng thời kỳ, trên từng chiến trường và trên cả nước. Mỗi thứ quân, mỗi lực lượng được huấn luyện, rèn luyện toàn diện, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác, tạo nên sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân, cùng toàn dân làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Ngày nay, trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, lực lượng vũ trang nhân dân cần tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh, sắp xếp, tổ chức lại, bảo đảm chất lượng, có số lượng, thành phần, tổ chức, cơ cấu phù hợp. Theo đó, lực lượng vũ trang nhân dân cần quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm, hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà nước về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, nhất là Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tiếp tục điều chỉnh tổ chức Quân đội nhân dân theo hướng tinh, gọn, mạnh gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị; điều chỉnh tổ chức bộ máy Công an nhân dân theo hướng bộ tinh, tỉnh toàn diện, xã vững mạnh, bám cơ sở; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng miền, trên biển. Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự, trình độ kỹ, chiến thuật, giáo dục chính trị, rèn luyện toàn diện gắn với bảo đảm tốt hậu cần, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bốn là, bảo đảm tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân; tích cực nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng các loại hình chiến tranh và thực tiễn phát triển của đối tượng tác chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với quan điểm “Người trước, súng sau," Đảng, Nhà nước ta luôn xác định vũ khí, trang bị là nhân tố cơ bản, tạo nên sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước ta có nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác cải tiến, bảo đảm vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật cho lực lượng vũ trang theo phương hướng: “kết hợp vũ khí thô sơ, vũ khí thông thường và vũ khí tương đối hiện đại, tiến lên ngày càng hiện đại”[11]. Các biện pháp chính để cải tiến, bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn này là: mua sắm, nhận viện trợ, tự sản xuất trong nước, thu gom của địch; đồng thời, sử dụng thành thạo, sáng tạo các vũ khí, trang bị hiện có với hiệu suất cao. Nhờ đó, lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân đã có một hệ thống vũ khí, trang bị tương đối đồng bộ, tương đối hiện đại, bảo đảm cho chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu được nâng lên, đủ sức đánh bại kẻ thù xâm lược có ưu thế vượt trội về vũ khí, trang bị.Song song với bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, phát triển và vận dụng sáng tạo, linh hoạt, nhuần nhuyễn nghệ thuật quân sự phù hợp trong điều kiện mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quy luật phát triển của cuộc kháng chiến này ở miền Nam là kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, kết hợp chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Trong đó, đấu tranh vũ trang giữ vai trò quyết định và chi phối trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến bằng những chiến dịch quân sự quy mô lớn. Các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân đã vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và không ngừng sáng tạo nghệ thuật tác chiến trong từng trận đánh, từng chiến dịch, nhất là nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng, nghệ thuật cơ động lực lượng, nghệ thuật tạo lập thế trận, nghệ thuật nghi binh, nghệ thuật chọn hướng, mũi, mục tiêu tiến công và cách đánh… tạo nên ưu thế vượt trội về sức mạnh để giành chiến thắng từng bước, tiến đến thắng lợi cuối cùng.Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, an ninh thế hệ mới, hiện đại cho lực lượng vũ trang trở thành xu thế của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện đại hóa lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, phù hợp với điều kiện, tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và xu thế phát triển khoa học kỹ thuật quân sự, an ninh trên thế giới.Để hiện thực hóa chủ trương đó, cùng với xây dựng con người là nhân tố trung tâm, có ý nghĩa quyết định, cần quan tâm bảo đảm tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân, mà giải pháp có tính bền vững lâu dài là phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh. Tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối về phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh với phương châm chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, bảo đảm tốt vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang trong mọi tình huống. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh xã hội trong tình hình mới.
Năm là, xây dựng và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, cùng toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Dựa chắc vào nhân dân, tuyệt đối trung thành, phục vụ nhân dân và đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân vừa là nguyên tắc căn bản trong nâng cao bản chất cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang, vừa là nét đẹp truyền thống quý báu của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra là nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi”[12].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che, giúp đỡ của nhân dân, được nhân dân cung cấp nhân lực và vật lực với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” đã giúp lực lượng vũ trang nhân dân nhanh chóng phát triển lớn mạnh. Nghị quyết của Bộ Chính trị (tháng 12/1962) xác định: “Quá trình phát triển của cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân miền Nam là quá trình phát triển của một cuộc chiến tranh du kích, toàn dân, toàn diện và trường kỳ, chống lại một kẻ địch mạnh, tàn bạo và thâm độc”[13]. Vì vậy, xây dựng và phát triển bền vững mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, cùng toàn dân chiến đấu và chiến thắng không chỉ là vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn là sách lược chủ yếu để thực hiện thắng lợi đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm 1959-1960, lực lượng vũ trang đã hỗ trợ đắc lực cho nhân dân miền Nam vùng lên, tiến hành phong trào Đồng khởi, làm chủ nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Trong những năm đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), quân và dân miền Nam đẩy mạnh phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi," kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; đồng thời, vận động đồng bào trong các ấp chiến lược đấu tranh, kết hợp với các đòn tiến công quân sự và binh vận, phá vỡ kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ - ngụy. Khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965-1968), quân và dân ta tiếp tục thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, chủ động tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, đồng thời đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là những biểu tượng sinh động nhất của sức mạnh toàn dân kháng chiến với lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ cần không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, đặc biệt là xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, bảo vệ nhân dân. Phát huy bản chất, truyền thống và thành tựu đã đạt được lực lượng vũ trang nhân dân cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác dân vận bằng những việc làm thiết thực nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống bình yên của nhân dân; xung kích đi đầu trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, sẵn sàng có mặt ở những nơi xung yếu, hiểm nguy để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh, phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng với yêu cầu cao của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Lực lượng vũ trang nhân dân đã làm tròn sứ mệnh cao cả, cùng toàn dân hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có những bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng và phát huy hơn nữa, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 471.[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 37, tr. 474.[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,tập 18, tr. 287.[4]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 18, tr. 300.[5]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 22, tr. 257.[6]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 22, tr. 243.[7] V.I.Lênin,Toàn tập,tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr. 147.[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4,tr. 89.[9]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 23, tr. 147.[10]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 23, tr. 831.[11]Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 338.[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4,tr. 448.[13]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 23, tr.
THÔNG ĐIỆP “NƯỚC VIỆT NAM LÀ MỘT” VANG VỌNG TRUYỀN THÔNG MỸ LATINH
Bài viết “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” của Tổng Bí thư Tô Lâm đã trở thành tâm điểm trong loạt bài đặc biệt của Thông tấn xã Mỹ Latinh Prensa Latina nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025).
Prensa Latina trích đăng bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm, trong đó nhấn mạnh chính sách hòa hợp dân tộc là “lựa chọn chiến lược lâu dài, là trụ cột trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Lãnh đạo Việt Nam khẳng định hòa hợp dân tộc không có nghĩa là quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn hơn: Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh vượng.
Bài báo dẫn lời Tổng Bí thư chia sẻ về những cuộc gặp xúc động với kiều bào ở nước ngoài - những người dù khác biệt về chính kiến nhưng đều chung tình yêu Tổ quốc. Đặc biệt, lãnh đạo Việt Nam cũng đề cập đến các cuộc gặp gỡ đầy tính nhân văn giữa cựu binh hai bên từng đối địch trong chiến tranh, nay có thể bắt tay nhau trong tinh thần hòa giải.
Prensa Latina nhận định, sau 50 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã chứng minh được sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc và khát vọng hòa bình. Thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm – “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” - không chỉ là chân lý bất diệt mà còn là mệnh lệnh từ trái tim của cả dân tộc, tiếp tục dẫn dắt đất nước trên con đường phát triển và hội nhập.
Cơ quan thông tấn Mỹ Latinh đã dành nhiều bài viết sâu rộng, khắc họa sinh động không khí chuẩn bị cho lễ diễu binh hoành tráng tại TP Hồ Chí Minh - nơi cách đây nửa thế kỷ, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã khép lại cuộc trường chinh vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Theo phóng viên Prensa Latina tại Hà Nội, mọi công tác chuẩn bị cho lễ diễu binh, diễu hành trọng thể tại TP Hồ Chí Minh đã hoàn tất sau buổi tổng duyệt vào ngày 27/4. Sự kiện dự kiến quy tụ khoảng 13.000 người tham gia, bao gồm lực lượng vũ trang, các đoàn thể quần chúng và đặc biệt có sự tham dự lần đầu tiên của đại diện quân đội ba nước bạn bè Trung Quốc, Lào và Campuchia. Hơn 20 đoàn đại biểu quốc tế, trong đó có 3 đoàn cấp cao, 4 đoàn cấp bộ trưởng và đại diện 15 đảng chính trị khác nhau sẽ tham dự sự kiện này.
Bên cạnh phần diễu binh trên mặt đất, chương trình còn có màn trình diễn ấn tượng của các phi đội trực thăng và tiêm kích Su-30MK2 bay qua bầu trời thành phố, kéo theo quốc kỳ và cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 50 khối diễu hành gồm lực lượng vũ trang, công an, dân quân tự vệ cùng đại diện các tầng lớp nhân dân sẽ tham gia lễ kỷ niệm chính thức vào lúc 6h30 sáng 30/4.
Các hoạt động kỷ niệm tại TP Hồ Chí Minh - Sài Gòn giải phóng năm xưa - đã bắt đầu từ ngày 19/4 với chương trình nghệ thuật đặc biệt “Đất nước trọn niềm vui” và hòa nhạc “Bản giao hưởng hòa bình” có sự tham dự của Tổng Bí thư Tô Lâm. Nhân dịp này, lãnh đạo Đảng đã gặp gỡ các anh hùng, tướng lĩnh từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Prensa Latina dẫn lời Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, Chiến thắng 30/4/1975 không chỉ là thắng lợi của ý chí quật cường, của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn là biểu tượng của khát vọng độc lập dân tộc, tự do và hòa bình. Đó là kết tinh của bao xương máu, hy sinh anh dũng của hàng triệu đồng bào, chiến sĩ trên khắp mọi miền đất nước.
NGÀY THỐNG NHẤT QUA KÝ ỨC CỦA NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
50 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về những ngày đầu đất nước thống nhất vẫn luôn vẹn nguyên trong trái tim của những người từng sống và chứng kiến thời khắc lịch sử ấy.
Năm 1972, nhà báo Đậu Ngọc Đản là một trong 53 người được tuyển chọn vào lớp phóng viên chiến trường của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị. Vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, ông đã lăn lộn tại đây hơn 20 ngày đêm.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, ông cùng với các đồng nghiệp chứng kiến thời khắc giải phóng thành phố Huế ngày 26/3. Đi xe máy vượt đèo Hải Vân, ngày 29/3 ông có mặt ở Đà Nẵng. Ngày 29/4 có mặt ở Xuân Lộc, ngoại vi Sài Gòn, nhà báo Ngọc Đản gặp đồng chí Hồng Cư, Cục trưởng Cục Văn hóa của Tổng cục Chính trị và Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 lúc đó là đồng chí Lê Khả Phiêu, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn.
Nhà báo Ngọc Đản nhớ lại: Lúc đó tôi đi theo đội hình hành quân của Trung đoàn 66, Sư đoàn 304. Sau đó gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn Tăng thiết giáp 203. Đơn vị đã chiến đấu trận cuối cùng ác liệt ở cầu Sài Gòn và chọc thủng được phòng tuyến của địch ở phía bắc cầu, đoàn xe tăng tiến thẳng vào Dinh Độc Lập.
11 giờ 24 phút ngày 30/4, tôi và đồng nghiệp Hoàng Thiểm có mặt trước Dinh Độc Lập. Chọn đúng thời cơ, trong những giây phút đầu tiên đó, tôi đã nhanh chóng ghi lại được những tấm hình lịch sử: Ông Dương Văn Minh đầu hàng đang bước xuống bậc tam cấp theo sự quản lý của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304, Lữ đoàn 203; hình ảnh Trung đoàn phó Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 Phạm Xuân Thệ; chân dung Đại đội trưởng Bùi Quang Thận từ xe tăng 843 chạy lên tầng thượng của Dinh Độc Lập cắm lá cờ Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi cũng đã ghi được lại cả những nhân chứng sự kiện xe tăng 390 với sự có mặt của nữ nhà báo Pháp; nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên (tức cô Nhíp) dẫn đầu chiếc xe tăng đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất…
Chụp được những bức ảnh lịch sử quý báu, nhưng chuyển ra Hà Nội ngay lúc đó mới là công việc cực kỳ khó khăn và đầy thử thách. Tình thế gấp gáp, nhà báo Ngọc Đản nghĩ ngay đến việc nhờ những người lính của chính quyền Sài Gòn có mặt trong Dinh Độc Lập. “Lúc đó là anh Võ Cự Long (sĩ quan lái xe dẫn đường của chính quyền Sài Gòn) xung phong đưa tôi và nhà báo Hoàng Thiểm về Đà Nẵng. Xe đi suốt không nghỉ, tới ngày 2/5/1975 về đến sân bay Đà Nẵng. Ngay buổi trưa hôm đó, nhà báo Hoàng Thiểm theo máy bay quân sự đưa tài liệu ra Hà Nội. Có được những thước phim vô cùng quý giá ấy, Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân ngày 3/5/1975 đã đăng những hình ảnh về giờ phút lịch sử ngày 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập”, Nhà báo Ngọc Đản chia sẻ.
Ngày 30/4/1975, dấu mốc chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam - Ngày Giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng ấy là kết quả của biết bao hy sinh, không chỉ của những người trực tiếp cầm súng nơi chiến trường ác liệt, mà còn của những lực lượng âm thầm đóng góp phía sau, từ chiến sĩ văn công, nhà báo chiến trường, dân công hỏa tuyến cho đến những người mẹ, người chị nơi hậu phương. 50 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về những ngày đầu đất nước thống nhất vẫn luôn vẹn nguyên trong trái tim của những người từng sống và chứng kiến thời khắc lịch sử ấy.
50 năm đã trôi qua, mỗi khi nhớ lại, nhà báo Ngọc Đản cho rằng số phận quá ưu ái ông khi được là một trong hai nhà báo miền bắc đầu tiên có mặt trong giây phút lịch sử năm ấy. Để giờ đây, những bức ảnh đó của ông đã trở thành tư liệu lịch sử vô giá của cách mạng Việt Nam.
Ngoài các phóng viên chiến trường, những người chiến sĩ văn công cũng là lực lượng đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng vang dội ngày 30/4/1975. Không trực tiếp chiến đấu, nhưng bằng lời ca, tiếng hát, họ đã tiếp thêm tinh thần, cổ vũ ý chí và lan tỏa niềm tin chiến thắng tới hàng triệu người dân và chiến sĩ khắp mọi miền Tổ quốc.
Ông Nguyễn Văn Vạn, nguyên là chiến sĩ văn công của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị, đi biểu diễn phục vụ bộ đội trên hầu khắp các chiến trường. Trong ký ức không thể phai mờ của ông, được biểu diễn trong những ngày đầu đất nước thống nhất là một dấu mốc thiêng liêng, đầy xúc động.
Ông Vạn cho biết : Trưa 30/4/1975, đoàn chúng tôi đang ở tại Mai Dịch. Đồng chí trưởng đoàn họp trên Tổng cục về báo tin Sài Gòn giải phóng rồi. Lúc đó mọi người đổ xô xuống dưới sân reo hò. Có người vác nồi chảo ra gõ. Tất cả đều hân hoan vỡ òa sau bao năm tháng chờ đợi. Sau đó, tất cả mọi người quên cả ăn, cùng chạy ra đường phố hòa vào không khí tưng bừng cờ hoa. Hầu như người Hà Nội chẳng ai ở trong nhà, mọi người kéo nhau đổ dồn về Bờ Hồ, Quảng trường Ba Đình. Ai nấy đều vui mừng vì bắc nam đã thống nhất.
Ngay sau đó, Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị nhận được lệnh vào Nam để biểu diễn chào mừng giải phóng và phục vụ nhân dân. “Có mặt ở Sài Gòn những ngày đầu thống nhất, chúng tôi chọn những bộ trang phục đẹp nhất để mặc. Nhân dân đổ ra đường xem rất đông, ai cũng khen văn công cách mạng đẹp. Chúng tôi biểu diễn ở Quân khu 7, diễn nhiều đêm ở rạp Quốc Thanh, rạp Trần Hưng Ðạo và nhiều địa điểm khác trong thành phố phục vụ nhân dân. Những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, Bác Hồ như: Giải phóng miền Nam, Chào anh giải phóng quân, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người… được cất lên vang dội giữa khung cảnh hòa bình vừa mới được tái lập. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể quên được sự chào đón nồng nhiệt, ấm áp mà người dân Sài Gòn dành cho các nghệ sĩ miền bắc, như gặp lại những người thân ruột thịt sau bao năm xa cách”, ông Nguyễn Văn Vạn nhớ lại.
Một trong những kỷ niệm xúc động nhất với ông là buổi biểu diễn tại rạp Quốc Thanh, phục vụ các cựu tù Côn Đảo mới trở về. “Tôi nhớ lúc đó trong đoàn có anh Lê Quang Vịnh, người được mệnh danh là 'huyền thoại Côn Đảo'. Chúng tôi biểu diễn tiết mục cuối là bài hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Khi những câu hát vang lên, cả khán phòng cùng vỗ tay theo rất khí thế. Nhưng khi kết thúc, các anh đã không kìm được sự xúc động, tràn lên sân khấu ôm chúng tôi, những giọt nước mắt hạnh phúc, cùng những tiếng hát hòa quyện vào nhau như lời khẳng định về một dân tộc bất khuất, về một chiến thắng không gì sánh bằng”.
Sau khi biểu diễn ở Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Vạn cùng đoàn đi biểu diễn phục vụ nhân dân ở các tỉnh phía nam.
Nguồn: Báo Lào Cai
XE TĂNG TIẾN VÀO DINH ĐỘC LẬP
THỜI KHẮC HÒA BÌNH SAU 21 NĂM ĐẤT NƯỚC CHIA CẮT
50 năm đã trôi qua, nhưng thời khắc hòa bình đầu tiên vẫn luôn vẹn nguyên trong ký ức của những người lính có mặt sớm nhất tại Dinh Độc Lập được chứng kiến giờ phút lịch sử.
Chiến dịch Hồ Chí Minh: Đã gần hơn ngày toàn thắng
Cách đây 50 năm, 17h ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược cuối cùng tiến hành dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị chính thức bắt đầu.
Với tinh thần thần tốc, táo bạo, bất ngờ và quyết thắng, 5 binh đoàn chủ lực của Quân giải phóng chia thành 5 mũi, tiến công vào trung tâm thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Quân giải phóng hiệp đồng với các lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân, chỉ sau một thời gian ngắn, quân ta đã chiếm được một số căn cứ và mục tiêu quan trọng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Với thắng lợi đỉnh cao của chiến dịch, cả miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất liền một dải, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, "nhất định sẽ thống nhất đất nước, đồng bào Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
Thời khắc hòa bình sau 21 năm đất nước bị chia cắt
Khoảnh khắc lịch sử xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập vào trưa 30/4/1975, đánh dấu Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
50 năm đã trôi qua, nhưng thời khắc hòa bình đầu tiên ấy vẫn luôn vẹn nguyên trong ký ức của những người lính có mặt sớm nhất tại Dinh Độc Lập được chứng kiến giờ phút lịch sử. Những khoảnh khắc oanh liệt, từng bước hành quân, từng trận đánh đã khắc sâu thành miền ký ức sống động, không thể phai mờ.
Trưa ngày 30/4/1975. Xe tăng 843 bị kẹt trước cổng dinh Độc Lập và xe 390 lao lên trước, lúc đó là 10h45'.
50 năm sau, các thành viên trên chiếc xe 390 có cuộc hội ngộ tại Hà Nội. Kíp chiến đấu giờ chỉ còn lại 3 người.
Những vết đạn vẫn hằn trên thân xe từ lúc tham gia chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và cuộc giao tranh ở cửa ngõ Sài Gòn.
Trung sĩ Nguyễn Văn Tập (lái xe 390 năm 1975) kể lại: "Trong sơ đồ chúng tôi được học là cứ vào đến ngã tư Hàng Xanh rẽ tay trái, qua 7 ngã tư thì sẽ về đến dinh Độc Lập. Khi xe tôi tung cánh cổng ra, tôi cho là một hành động rất dũng cảm của một đại đội trưởng. Ông ấy nhổ một cần ăng-ten trên có cắm cờ, chạy theo xe 390, thế cuối cùng anh Toàn với anh Thận, ông thì bắt nội các, ông thì lên cắm cờ".
Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh - chiến dịch tiến công lớn nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam và cũng là chiến dịch mà nghệ thuật sử dụng tăng, thiết giáp tham gia tác chiến được phát huy cao nhất, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trưa ngày 30/4, cán bộ, chiến sĩ đại đội 4, Lữ đoàn xe tăng 203 là những người chạm tay vào hòa bình sớm nhất. Họ chào đón hòa bình theo cách của riêng mình.
Hai chiếc xe tăng có mặt sớm nhất tại dinh Độc Lập đã đóng vai trò quyết định của Chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của dân tộc Việt Nam.
Xe 390 và kíp chiến đấu còn vinh dự có mặt trong đội hình lễ duyệt binh đầu tiên tại Sài Gòn nửa tháng sau ngày Đại thắng.
50 năm sau, xe 390 - bảo vật quốc gia, sẽ hoàn thành sứ mệnh ở Bảo tàng lực lượng Tăng - Thiết giáp để chuyển đến trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Mỗi câu chuyện được viết nên bởi người lính Cụ Hồ trong Chiến thắng 30/4 lịch sử là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện cho ý chí quật cường, lòng yêu nước, sức mạnh của dân tộc Việt Nam về khát vọng hòa bình. Khoảnh khắc chạm tay vào hòa bình cách đây 50 năm đang được viết tiếp bởi những người trẻ hôm nay bằng lòng biết ơn và trách nhiệm cống hiến.
Nguồn: Bào Lào Cai
CHIẾC XE TĂNG HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP: DẤU SON CỦA NGƯỜI LÍNH XE TĂNG
50 năm trước, chiếc xe tăng 390 đã lao thẳng vào cổng chính di tích lịch sử Dinh Độc Lập, khép lại trang sử chiến tranh, mở ra kỷ nguyên hòa bình, thống nhất đất nước Việt Nam. Hôm nay, trong niềm xúc động trở lại Thành phố mang tên Bác Hồ, ba trong bốn thành viên kíp xe tăng huyền thoại ấy - Vũ Đăng Toàn, Ngô Sỹ Nguyên và Nguyễn Văn Tập lại cùng nhau ôn lại khoảnh khắc mà họ gọi là
'Tông thẳng vào!' – Mệnh lệnh giữa thời khắc lịch sử
Trưa 30/4/1975, kíp xe tăng mang số hiệu 390, thuộc Lữ đoàn 203, Quân đoàn 2, nhận lệnh tiến vào Dinh Độc Lập - cứ điểm cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Trên xe lúc đó có bốn người: Trưởng xe Vũ Đăng Toàn, pháo thủ số 1 Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ số 2 Lê Văn Phượng và lái xe Nguyễn Văn Tập.
“Lúc đó, xe tăng 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận đi trước đã rẽ trái tiếp cận cổng phụ. Xe chúng tôi từ đường Lê Duẩn áp sát cổng chính. Lái xe Nguyễn Văn Tập quay sang hỏi tôi: ‘Thế nào anh?’. Tôi ra lệnh dứt khoát: ‘Chú tông thẳng vào!’”, ông Vũ Đăng Toàn nhớ lại.
Tiếng động cơ gầm lên, chiếc xe tăng 390 không do dự húc tung cánh cổng sắt Dinh Độc Lập, ghi dấu bước chân đầu tiên của quân Giải phóng vào trung tâm đầu não chế độ cũ. Cùng thời điểm ấy, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, người mang theo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, cũng vừa chạy tới. Biết rằng lá cờ được cắm trên nóc Dinh chính là biểu tượng chiến thắng, ông Toàn vội nhảy khỏi xe, cầm theo khẩu AK yểm trợ cho ông Thận thực hiện nhiệm vụ trên.
Hội trường Thống Nhất ngày nay trở thành điểm đến du lịch của nhiều du khách.
“Hai anh em chúng tôi cứ thế lao thẳng vào Dinh. Không ai nghĩ đến chuyện sẽ bị bắn. Chúng tôi chỉ muốn cắm được lá cờ thật nhanh để báo hiệu chiến thắng, để đồng bào và đồng đội không còn phải đổ máu nữa!”, ông Toàn xúc động kể lại.
Cùng chung ký ức hào hùng, ông Nguyễn Văn Tập - người lái xe tăng 390, chia sẻ: “Không dễ gì để xe tăng của chúng ta tiến được đến cổng Dinh Độc Lập. Trước đó, biết bao chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống để mở đường cho chúng tôi có mặt tại thời khắc lịch sử ngày 30/4/1975”.
Ký ức không thể phai
Khi xe tăng tiến vào bên trong Dinh Độc Lập, người đầu tiên ông Toàn gặp là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá của Tổng thống Dương Văn Minh. “Ông ấy thông báo Tổng thống vẫn còn ở lại và mời chúng tôi lên làm việc”, ông Toàn kể lại.
“Trong phòng nội các, khoảng 60 người lặng lẽ ngồi chờ. Họ rất lo sợ khi thấy chúng tôi bước vào, người cầm súng, người mặc quân phục, nhưng không ai nổ súng. Chúng tôi chỉ giữ trật tự, chờ chỉ huy cấp trên đến để làm việc với Tổng thống Dương Văn Minh. Đó là khoảnh khắc chuyển giao đầy xúc động: Chấm dứt một cuộc chiến, mở ra kỷ nguyên hòa bình và thống nhất đất nước”, ông Toàn bồi hồi nhớ lại.
Lẽ ra trong lần gặp mặt kỷ niệm 50 năm thống nhất năm nay, cả bốn người lính xe tăng 390 sẽ lại có mặt trước Dinh Độc Lập như năm nào. Thế nhưng, pháo thủ Lê Văn Phượng đã không còn kịp chờ đến ngày ấy. “Chuyến đi lần này chỉ còn lại ba người chúng tôi. Thiếu anh Phượng, thấy trống vắng lắm”, ông Ngô Sỹ Nguyên nghẹn ngào.
Ông Ngô Sỹ Nguyên trong ngày trở lại Di tích lịch sử Dinh Độc lập.
Sau chiến tranh, ba người lính xe tăng 390 còn lại sống ở ba nơi khác nhau, nhưng mỗi dịp 30/4, họ lại cố gắng hội ngộ, cùng nhau ôn lại ký ức một thời hoa lửa. “Chiến tranh mang đến nhiều mất mát, nhưng cũng cho chúng tôi những người anh em - tuy không cùng mẹ sinh ra nhưng có thể giỗ cùng ngày. Trong thời chiến, chúng tôi đã từng kề vai sát cánh qua nhiều trận đánh ác liệt, vẫn lạc quan sống và chiến đấu. Suốt 50 năm qua, chúng tôi chứng kiến con cháu trưởng thành, chia sẻ cả những niềm vui lẫn nỗi buồn. Tình đồng đội ấy gắn bó keo sơn, không chỉ trong chiến tranh mà cả thời bình”, ông Ngô Sỹ Nguyên chia sẻ.
Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ thời khắc chiếc xe tăng 390 húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập, những người lính năm xưa nay tóc đã bạc, dáng đi chậm rãi, nhưng ánh mắt vẫn sáng lên mỗi khi nhắc về ngày lịch sử ấy. Ông Vũ Đăng Toàn xúc động nói: “Chúng tôi đã giành lại Tổ quốc bằng biết bao xương máu của đồng bào, đồng chí. Mong thế hệ trẻ hôm nay biết giữ gìn, phát triển đất nước để xứng đáng với tầm vóc của những người đã ngã xuống”.
Chính sự hiện diện của những cựu binh xe tăng 390 tại Hội trường Thống Nhất - Di tích lịch sử Dinh Độc Lập trong những ngày tháng Tư này là minh chứng sống động cho sự hy sinh, tinh thần yêu nước và một khát vọng không đổi: Đất nước mãi mãi độc lập, hòa bình và phát triển.
Trong không khí xúc động và thân tình, Trung tướng Trương Thiên Tô, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chia sẻ: “Trưa 30/4/1975, hình ảnh xe tăng 390 húc đổ cổng Dinh Độc Lập, lá cờ chiến thắng tung bay và những người lính lặng lẽ giữ trật tự bên trong tòa nhà ấy đã trở thành biểu tượng khép lại chiến tranh, mở ra hòa bình. Hôm nay, câu chuyện từ họ vẫn tiếp tục truyền lửa, tiếp nối tinh thần một thời "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" của thế hệ cha anh”.
Nguồn: Báo Lào Cai