THƯ MỤC CHUYÊN ĐỀ: KỶ NIỆM 60 NĂM CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ (02/12/1964 - 02/12/2024))

Thứ hai - 02/12/2024 08:13 91 0
THƯ MỤC CHUYÊN ĐỀ: KỶ NIỆM 60 NĂM CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ (02/12/1964 - 02/12/2024))

THƯ VIỆN TỈNH LÀO CAI

PHÒNG NGHIỆP VỤ CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG

***

Thực hiện văn bản số 126-HD/BTGTW, ngày 19/12/2023 về hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng năm 2024;

Nhằm tuyên truyền bối cảnh lịch sử và diễn biến trận Bình Giã; Ý nghĩa và bài học lịch sử của chiến thắng trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế; Khẳng định chiến thắng Bình Giã là dấu mốc chói lọi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc; Tôn vinh và tri ân tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng hy sinh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước…

Phòng Nghiệp vụ Công nghệ và Truyền thông- Thư viện tỉnh Lào Cai xây dựng Thư mục chuyên đề Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã (02/12/1964-02/12/2024)

Trân trọng giới thiệu!
Chiến thắng bình giã
Tượng đài chiến thắng Bình Giã, quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
 
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã (02/12/1964 - 02/12/2024)
-----
I- BỐI CẢNH, DIỄN BIẾN VÀ KẾT QUẢ CHIẾN DỊCH
1. Bối cảnh lịch sử
Chiến thắng vang dội của quân và dân miền Nam ở Ấp Bắc ngày 02/01/1963 đã góp phần làm sụp đổ về cơ bản kế hoạch Staley-Taylor, tiếp tục đẩy ngụy quân, ngụy quyền vào tình thế nguy ngập không thể cứu vãn. Qua đó, đồng bào ta càng thêm tin tưởng vào khả năng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sau thắng lợi trên, theo chủ trương của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát động “Thi đua ấp Bắc, diệt giặc lập công”, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, làm phá sản chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của chúng.
Bước vào năm 1964, phong trào cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam tiếp tục phát triển. Ta đã phá tan và phá lỏng hàng ngàn “ấp chiến lược” của địch, mở ra nhiều vùng giải phóng. Phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, bộ đội địa phương có bước phát triển mới đã đánh tiêu diệt được đại đội, tiểu đoàn địch, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch lập “ấp chiến lược” của địch, đẩy Mỹ - ngụy ngày càng lâm vào thế thất bại và suy yếu nghiêm trọng, làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ và tay sai, nhất là giữa bọn tay sai đầu sỏ trở lên gay gắt và hỗn loạn, không thể dàn xếp được. Mỹ cho rằng, nguyên nhân chính của tình hình đó là do bọn tay sai Ngô Đình Diệm bất tài, bất lực và đến tháng 11/1963, Mỹ đã chỉ đạo một số tướng lĩnh quân đội Sài Gòn làm đảo chính, lật đổ Ngô Đình Diệm, đưa Dương Văn Minh rồi Nguyễn Khánh lên thay. Nhưng bọn tay sai mới tiếp tục đấu đá nhau và không chống đỡ nổi cuộc tiến công nổi dậy ngày càng mạnh mẽ của quân và dân miền Nam. Từ tháng 3/1964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch Giônxơn-Mắc Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng 2 năm (1964 - 1965), đẩy chiến lược “chiến tranh đặc biệt” lên đỉnh cao, dùng ưu thế quân sự và mọi thủ đoạn thâm độc, tàn bạo đè bẹp phong trào cách mạng, hòng cứu vãn nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn của ngụy quyền tay sai trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Cuối năm 1963, Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đánh giá thắng lợi của quân và dân miền Nam sau 2 năm tiến hành chiến tranh cách mạng chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, xác định phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời tích cực tranh thủ và sáng tạo thời cơ để thắng địch trong thời gian tương đối ngắn.
Trên cơ sở nhận định tình hình và quyết tâm tiến hành chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam đã xác định phương hướng nhiệm vụ năm 1964 - 1965 là: “Ra sức động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tranh thủ, thời cơ liên tục tiến công địch, kiên quyết đánh bại kế hoạch Giônxơn-Mắc Namara, làm cho mưu đồ tập trung quân đánh phá có trọng điểm và gom dân lập “ấp chiến lược” của địch bị thất bại nặng nề, làm cho sinh lực của chúng bị tổn thất nhiều hơn nữa, đồng thời khẩn trương xây dựng thực lực ta, đặc biệt là xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, tạo ra những điều kiện cần thiết để sang năm sau có thể mở ra cục diện to lớn cho phong trào, tiến lên giành thắng lợi quyết định”1.
Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền cũng xác định quyết tâm: “Trước mắt tiếp tục tiến công, tiêu diệt và làm tan rã các đơn vị bảo an, dân vệ, biệt kích và các lực lượng bán vũ trang của địch, phá “ấp chiến lược” hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị của quần chúng. Đồng thời nâng cao dần mức tác chiến của chủ lực, tiến tới đánh tiêu diệt làm tan rã từng bộ phận chủ lực của địch, không ngừng nâng cao trình độ đánh, vận động chiến của chủ lực ta ở các địa bàn chiến lược, tiến tới làm cho vai trò của vận động chiến giữ địa vị quyết định...”2.
Để vận dụng đúng đắn nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền chủ trương mở chiến dịch tác chiến tập trung trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đó là yêu cầu khách quan có tính chất chiến lược dẫn đến sự xuất hiện chiến dịch đầu tiên của chủ lực ta ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
2. Đặc điểm tình hình và sự chuẩn bị của ta
a. Đặc điểm tình hình
“Ấp chiến lược” Bình Giã (nay thuộc huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) nằm trên hướng lộ 327 cách chi khu Đức Thạnh (tỉnh Bà Rịa cũ) 4 km, chiều dài của ấp khoảng 4 km, với 4.000 dân di cư theo đạo thiên chúa, phần lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến ngụy; đây là “ấp chiến lược” “kiểu mẫu” của địch, trong đó số đông Nhân dân bị giáo lý phản động mê hoặc, bị địch lợi dụng chống phá ta.
Địa hình khu vực Bình Giã phần lớn là vùng đất đỏ, rừng bằng, cây nhỏ, xen kẽ một ít đồi núi, nhiều đồn điền cao su rộng lớn nằm ven theo 2 bên trục lộ số 2, có một số đồn điền nằm sâu trong căn cứ của ta bị bỏ hoang cây cỏ phủ kín, thuận lợi cho ta ém trú quân và hành quân, cơ động lực lượng kín đáo, bí mật. Ngược lại, địa hình này không thuận lợi cho địch cơ động lực lượng bằng cơ giới, khó quan sát phát hiện ta, dễ bị ta phục kích tiêu diệt, buộc địch phải phụ thuộc vào các trục lộ chính để vận chuyển tiếp tế và hành quân chi viện cho nhau.

1 Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch Bình Giã Ðông Xuân 1964-1965, nhà in Bộ Tham mưu Quân khu 7, tháng 4/1988, tr6.
2Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch Bình Giã Ðông Xuân 1964-1965, Sđd, tr6.
Về đường xá, quốc lộ số 15 chạy từ Vũng Tàu qua Bà Rịa lên quốc lộ số 1 Biên Hòa - Sài Gòn và đường liên tỉnh lộ số 2 từ thị trấn Xuân Lộc (Đồng Nai) lên quốc lộ số 1 chạy xuống Bà Rịa. Đây là những con đường huyết mạch có tính chất chiến lược của địch nên Mỹ và tay sai ra sức củng cố. Ngoài ra còn có lộ 327 nối liền chi khu Đức Thạnh với “ấp chiến lược” Bình Giã - Xuân Sơn.
Từ cuối năm 1964, để cứu vãn sự thất bại của quân đội Sài Gòn, Mỹ và chính quyền tay sai gấp rút triển khai kế hoạch bình định có trọng điểm, tổ chức khu vực Bình Giã, Đức Thạnh, Long Điền, Xuyên Mộc, Đất Đỏ thành 4 chi khu quân sự với lực lượng gồm 4 tiểu đoàn biệt động quân (30, 33, 35, 38), 2 tiểu đoàn
thủy quân lục chiến (1, 4) của Lữ đoàn 147, 2 tiểu đoàn dù (5, 6), 3 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội pháo binh 105 mm và 1 chi đoàn xe thiết giáp M113. Mỗi chi khu có từ 1 đại đội đến 1 tiểu đoàn bảo an đóng giữ; riêng “ấp chiến lược” Bình Giã, địch tổ chức lực lượng riêng để bảo vệ, chống phá ta quyết liệt. Do tính chất quan trọng của tỉnh Bà Rịa, nên địch ra sức củng cố tỉnh này để tạo thành thế phòng thủ án ngữ mặt phía Bắc và Đông Bắc, bảo vệ căn cứ hải quân Vũng Tàu.
b. Sự chuẩn bị của ta
Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và phương hướng hoạt động tác chiến Đông Xuân 1964 - 1965, đầu tháng 11/1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công địch tại khu vực Bình Giã - Đức Thạnh - Đường số 2 (cách Sài Gòn 70 km về phía đông), trên địa bàn các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và nam tỉnh Bình Thuận) với diện tích gần 500km2, trong đó xác định hướng chủ yếu là Bà Rịa - Long Khánh, hướng phối hợp là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hòa) và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận) nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực, phá kế hoạch bình định trọng điểm của ngụy quyền Sài Gòn, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá “ấp chiến lược”, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ cách mạng. Bộ Tư lệnh Chiến dịch được thành lập gồm: Tư lệnh Trần Đình Xu, Chính ủy Lê Văn Tưởng, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Nguyễn Hòa, Phó Chính ủy Lê Xuân Lưu, Phó Tư lệnh Nguyễn Hồng Lâm (Hải Bứa). Lực lượng tham gia chiến dịch có 2 trung đoàn bộ binh (761, 762), Đoàn Pháo binh 80 (4 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bộ binh (500, 800) chủ lực Quân khu 7; Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu 6, Đại đội 445 bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng lực lượng dân quân, du kích. Căn cứ nhiệm vụ được giao, ngày 15/11/1964, Bộ Tư lệnh Chiến dịch thông qua quyết tâm tác chiến của chiến dịch.
Đây là lần đầu tiên Bộ Chỉ huy Miền tập trung lực lượng lớn, cơ động chiến đấu trên địa bàn rộng, xa hậu phương. Để giữ bí mật, tạo thuận lợi cho công tác chuẩn bị và triển khai chiến dịch, đánh lạc hướng phán đoán của địch, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương trên các chiến trường, buộc địch phải phân tán đối phó trên nhiều hướng. Với sự nỗ lực, chủ động và phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, đến ngày 20/11/1964 về cơ bản ta đã hoàn thành công tác chuẩn bị, trong đó vận chuyển được 500 tấn vũ khí, hơn 200 tấn lương thực..., kịp thời bảo đảm cho các đơn vị vào vị trí tập kết đúng quy định: Trung đoàn 761 ở nam Xuân Sơn, Trung đoàn 762 ở đông nam núi Nghệ, pháo binh ở Vạn Kiếp và tây bắc Đức Thạnh; Sở chỉ huy Chiến dịch đặt ở núi Nưa.
3. Diễn biến và kết quả chiến dịch
a) Diễn biến chính (chiến dịch được tiến hành theo 2 đợt)
Đợt 1 (02 - 17/12/1964): rạng sáng 02/12, trong khi một bộ phận bộ binh, súng cối của Trung đoàn 761 bao vây, kiềm chế chi khu quân sự Đức Thạnh, Đại đội 445 tỉnh Bà Rịa nổ súng tiến công “ấp chiến lược” Bình Giã nhưng không dứt điểm, gần sáng phải rút ra ngoài. Sáng 3/12, địch cho Tiểu đoàn Biệt động quân 38 đổ bộ bằng máy bay trực thăng xuống tây nam Đức Thạnh để giải tỏa, khôi phục ấp Bình Giã. Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ trương tiếp tục tiến công Bình Giã, tạo áp lực mạnh ở khu vực này, buộc địch phải ra giải tỏa để ta tiêu diệt. Đêm 7/12 ta sử dụng Đại đội 445 và 1 đại đội của Trung đoàn 762 tiến công Bình Giã lần 2; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 761) và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 762) đánh thẳng vào chi khu quân sự Đất Đỏ; lực lượng pháo binh Miền tập kích hỏa lực vào các chi khu Xuyên Mộc, Đức Thạnh, căn cứ huấn luyện biệt kích Vạn Kiếp.
Trước áp lực ngày càng tăng của ta ở Bình Giã - Đức Thạnh, ngày 09/12 địch sử dụng Chi đoàn thiết giáp 3 (Thiết đoàn 1) có không quân yểm trợ mở cuộc hành quân “Bình Tuy 33” càn quét dọc đường 2, đoạn từ Bà Rịa lên Đức Thạnh. Trung đoàn 762 bố trí sắn trận địa phục kích nhưng không đánh được (do địch hành quân không đúng hướng ta dự kiến), đã kịp thời cơ động về phía đông núi Nghệ (cách đường 2 khoảng 4 km). Tại đây, ngày 13/12, đoàn xe địch từ Đức Thạnh trở về lọt vào trận địa phục kích, Trung đoàn nhanh chóng vận động tiến công, sau gần 1 giờ chiến đấu diệt gọn Chi đoàn thiết giáp 3, phá hủy nhiều xe thiết giáp, máy bay trực thăng và sinh lực địch, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ nhất của chiến dịch. Trong khi đó, trên hướng phối hợp Hoài Đức, Tánh Linh, Tiểu đoàn 186 Quân khu 6 đánh chiếm “ấp chiến lược” Mê Pu, chặn đánh viện binh địch từ Hoài Đức, La Gi lên ứng cứu, đánh thiệt hại nặng 3 đại đội bảo an, 1 đại đội dân vệ.
Kết thúc đợt 1, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận định: Mặc dù địch thất bại và lâm vào thế lúng túng, bị động, nhưng do tầm quan trọng của khu vực Đức Thạnh - Bình Giã, nên địch vẫn cố giữ bằng mọi giá và sẽ đưa lực lượng cơ động tới ứng cứu. Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Đức Thạnh - Bình Giã, đường 2, đánh chiếm và trụ lại ấp Bình Giã, đồng thời uy hiếp chi khu Đức Thạnh, kéo địch đến khu vực đã lựa chọn để thực hiện trận then chốt quyết định. Trong thời gian chuẩn bị cho đợt 2, đêm 22/12 chuyến tàu chở 44 tấn vũ khí từ miền Bắc vào bến An Lộc đã kịp thời cung cấp cho chiến trường miền Đông, góp phần tạo thêm sức mạnh cho các đơn vị tham gia chiến dịch.
Đợt 2 (27/12/1964 - 3/1/1965): Đêm 27/12, Trung đoàn 761 sử dụng 2 đại đội phối hợp với Đại đội 445 đánh chiếm “ấp chiến lược” Bình Giã và tổ chức chốt giữ. Đồng thời, ta dùng hỏa lực ĐKZ và súng cối ở tây bắc Ngãi Giao bắn phá chi khu quân sự Đức Thạnh. Sáng 28/12, địch cho Tiểu đoàn Biệt động quân 30 ở Bà Rịa đổ bộ bằng máy bay trực thăng xuống khu vực Trảng Trống ở tây nam Đức Thạnh, từ đó chia thành 3 mũi tiến vào Bình Giã, nhưng bị ta chặn đánh quyết liệt, phải rút chạy về ấp La Vân. Trưa cùng ngày, địch tiếp tục dùng máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn Biệt động quân 33 từ Biên Hòa đổ xuống đông bắc ấp Bình Giã, nhưng cũng bị hỏa lực phòng không của ta chế áp, phải chuyển hướng xuống khu vực cánh đồng trũng ở phía đông nam Bình Giã, cách trận địa phục kích của ta khoảng 500 m. Nắm thời cơ địch chưa kịp triển khai đội hình, Trung đoàn 761 cho bộ đội xuất kích bao vây tiến công, đến 18 giờ làm chủ hoàn toàn trận địa, tiêu diệt phần lớn quân địch, bắn rơi 18 máy bay trực thăng, hoàn thành thắng lợi trận then chốt thứ hai của chiến dịch.
Ngày 30/12, địch cho máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 4 thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược đổ bộ xuống đông nam ấp La Vân 600m (gần quận lị Đức Thạnh) để cùng Tiểu đoàn Biệt động quân 30 phản kích chiếm lại Bình Giã. 18 giờ cùng ngày, ta bắn rơi 1 máy bay trực thăng ở Quảng Giới diệt một số địch, trong đó có 4 lính Mỹ (có 1 trung tá). Nhận định địch sẽ tổ chức tìm xác đồng đội, Bộ Tư lệnh Chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 761 khẩn trương bố trí trận địa phục kích tại đây. Đúng như dự kiến của ta, 14 giờ 30 phút ngày 31/12 khi Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 4 đến Quảng Giới, Trung đoàn 761 đã kịp thời nổ súng, bao vây chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận, đến 18 giờ, các lực lượng của ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt gần 600 địch, thu toàn bộ vũ khí, hoàn thành thắng lợi trận then chốt thứ ba của chiến dịch.
Để cứu nguy cho Đức Thạnh và cố gắng chiếm lại Bình Giã, ngày 01/01/1965 địch huy động khoảng 2 nghìn quân mở cuộc hành quân giải tỏa mang tên “Hùng Vương 2”. Phán đoán chính xác hướng hành quân của địch, Trung đoàn 762 phục kích tại khu vực Cóc Tiên diệt gọn đoàn xe 10 chiếc và 1 đại đội địch trên đường 15 từ Vũng Tàu về Sài Gòn. Tiếp đó, ngày 03/01, trung đoàn tiếp tục phục kích trên đường số 2 từ Bà Rịa lên Đức Thạnh, diệt đoàn xe 16 chiếc, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn Biệt động quân 35. Cùng ngày, Tiểu đoàn 800 Quân khu 7 tập kích trại biệt kích Bình Sơn, phối hợp với du kích Long Thành diệt đồn Tam An, Phước Thọ, hỗ trợ quần chúng phá “ấp chiến lược”. Trên hướng Hoài Đức - Tánh Linh, ta bao vây chi khu Hoài Đức, đánh chiếm các “ấp chiến lược” Mê Pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim, Tà Bao, làm tan rã lực lượng dân vệ ở đây. Ngày 3/1/1965, Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.
b. Kết quả chiến dịch: ta loại trên 1.700 địch (bắt 293), trong đó diệt Tiểu đoàn Biệt động quân 33, Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 4 và 1 chi đoàn thiết giáp M113; đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38), 7 đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực; phá hủy và phá hỏng 45 xe quân sự (phần lớn là M113), bắn rơi, bắn cháy, bắn hỏng 56 máy bay các loại, thu hơn 1 nghìn súng và gần 100 máy thông tin các loại; phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược” ven đường số 2 và đường số 15, giải phóng vùng ven Hàm Tân và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hát Dịch (Bà Rịa) nối liền với Chiến khu Đ và căn cứ Bình Thuận, bảo đảm căn cứ tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào bằng đường biển.
II- Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CHIẾN DỊCH
Chiến thắng Bình Giã (1964 - 1965) đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, tạo ra thế và lực mới, góp phần thúc đẩy nhanh sự phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược to lớn, ảnh hưởng sâu rộng ở trong và ngoài nước, khẳng định tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta, đặc biệt là lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong lãnh đạo và tiến hành chiến tranh cách mạng, nổi bật là:
Một là, chiến thắng đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Ðảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và B Chỉ huy Miền, cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng và mở ra khả năng mới cho cách mạng miền Nam tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đ¾c biệt” của đế quốc Mỹ.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Bình Giã với mục đích tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá kế hoạch bình định có trọng điểm của địch, phá “ấp chiến lược”, hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ, đánh bại chỗ dựa căn bản của quân Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Tinh thần ấy được cụ thể hóa bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết đánh bại kẻ thù xâm lược. Cổ vũ quân và dân ta phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, không ngại khó khăn, gian khổ, sắn sàng chiến đấu, hy sinh, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của chiến dịch, đẩy địch vào tình trạng ngày càng suy sụp. Đánh giá về chiến dịch, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Trong quá trình chiến tranh giải phóng ở miền Nam đã diễn ra những bước nhảy vọt. Với trận Ấp Bắc năm 1963, địch thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giã địch thấy thua ta”.
Hai là, chiến thắng đã tạo bước ngo¾t trong so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho ta, góp phần quan trọng đánh bại chiến lược “chiến tranh đ¾c biệt” của địch, mở ra nhũng điều kiện quan trọng để tiến lên đánh bại các âm mưu chiến lược của Mỹ - ngụy.
Cuối năm 1962, quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên tới 11.300 tên và có 13 đại đội máy bay trực thăng, 5 đại đội máy bay trinh sát, oanh tạc, vận tải, 4 phi đội phản lực chiến đấu với 257 máy bay các loại, 8 đại đội công binh, thông tin và 1 đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt; 331 tàu, xuồng. Đặc biệt, Mỹ đã tăng viện trợ quân sự: Năm 1961-1962, có 321,7 triệu USD (80 triệu USD vũ khí); năm1962-1963, lên tới 675 triệu USD (100 triệu USD vũ khí); quân ngụy đã tăng nhanh (năm 1960 là 16 vạn quân chính quy, năm 1962 lên 36,2 vạn quân; lực lượng bảo an năm 1960 là
70.000 tên, năm 1962 lên 174.500 tên; Lực lượng dân vệ gồm 128 đại đội và hơn
1.000 trung đội, 2.000 tiểu đội).
Sau chiến thắng Bình Giã của quân và dân miền Nam, tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường đã thay đổi theo hướng có lợi cho ta. Lực lượng vũ trang giải phóng với ba thứ quân đã lớn mạnh vượt bậc, cụ thể: năm 1963 là 72,6 vạn người (7 trung đoàn chủ lực); năm 1964 quân số đã tăng lên 103,986 vạn người (10 trung đoàn chủ lực). Vùng giải phóng đã mở rộng, chiếm phần lớn lãnh thổ miền Nam, trở thành hậu phương trực tiếp và vững chắc của cách mạng miền Nam.
Về phía địch, chỗ dựa chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt” là nguy quân, nguy quyền; hệ thống “ấp chiến lược” và thành thị đều bị lung lay tận gốc. Hầu hết các lực lượng vũ trang địa phương của địch bị tan rã, hệ thống “ấp chiến lược” bị sụp đổ đến 4/5, các tầng lớp trung gian ngày càng ngả về xu hướng chống Mỹ, ủng hộ hòa bình, trung lập. Từ tháng 11/1963 - 6/1965, đã xảy ra 14 cuộc đảo chính và phản đảo chính trong chính quyền ngụy quyền Sài Gòn.
Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ba là, chiến thắng Bình Giã đánh dấu bước trưởng thành vượt b¾c của chủ lực Quân Giải phóng miền Nam, nhất là về nghệ thu¾t chiến dịch, sủ dụng lực lượng, v¾n dụng cách đánh cũng như các hoạt đ ng tác chiến khác.
Chiến thắng Bình Giã đã hoàn thành xuất sắc 3 mục tiêu: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược; mở rộng vùng giải phóng sát ra biển, xây dựng bến tiếp nhận của Trung ương từ miền Bắc vào miền Nam. Đặc biệt chọn điểm khêu ngòi tiến công Bình Giã, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động tiến công địch trên khắp chiến trường nhằm căng, kéo, thu hút sự chú ý của chúng về hướng khác, nghi binh, giữ bí mật làm cho địch phán đoán sai ý định của ta, thậm chí còn điều quân ra xa Bình Giã; nhận định chính xác ý đồ tăng viện, ứng cứu, giải tỏa bằng không quân của địch, từ đó chỉ đạo lực lượng phòng không chiến dịch nghiên cứu kỹ tình hình, chủ động có phương án đón lõng đánh máy bay địch, quân đổ bộ.
Vì thế, đã tiêu diệt được hầu hết các máy bay của chúng. Thắng lợi đó, khiến Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oa-sinh-tơn đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã ”.
Bốn là, chiến thắng Bình Giã đã khẳng định chủ trương đúng đắn về sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang t¾p trung, quả đấm chủ lực, để đánh bại chiến lược “Chiến tranh đ¾c biệt”của địch.
Chiến thắng Bình Giã minh chứng sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng bộ đội chủ lực để nâng cao trình độ tác chiến, tổ chức tiến hành các chiến dịch tập trung quy mô lớn hơn trên chiến trường miền Nam. Đại tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam (khi ấy là Thiếu tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng - Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam) đã khẳng định: “Chiến dịch Bình Giã, chúng ta chỉ tung 2 trung đoàn mà địch đã phải chịu thất bại nặng nề. Nếu chúng ta có thêm quân chủ lực, chắc chắn sẽ giành thắng lợi nhanh chóng, vang dội hơn. Vì vậy, thời gian tới cùng với phát triển dân quân, du kích rộng khắp phải đặc biệt chăm lo xây dựng những “quả đấm” chủ lực mạnh có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn, làm xoay chuyển cục diện chiến trường”.
Năm là, chiến thắng Bình Giã đã giáng m t đòn mạnh mẽ thúc đẩy làm phá sản căn bản chiến lược “chiến tranh đ¾c biệt” của đế quốc Mỹ, báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của ngụy quyền Sài Gòn và quốc sách “ấp chiến lược”, chiến thu¾t “thiết xa v¾n”, “trực thăng v¾n” của Mỹ - ngụy.
Chiến thắng Bình Giã thực sự là đòn quyết định, góp phần làm thất bại quốc sách “ấp chiến lược” vấn đề “xương sống” trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mỹ - ngụy; đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận ” của Mỹ - ngụy, làm cho chúng không còn tin tưởng nhiều vào chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Bình Giã chính là dấu mốc cho sự thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, một bộ phận của chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ áp dụng vào chiến trường miền Nam Việt Nam.
Cùng với chiến thắng Bình Giã, quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam đã tiến hành các đợt hoạt động tác chiến với quy mô khác nhau, như: An Lão (30/11 - 08/12/1964), Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965),… góp phần làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
III- PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Dự báo tình hình thế giới, khu vực trong những năm tới có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, khó dự báo, tác động đến sự ổn định của thế giới, khu vực và mỗi quốc gia. Trong nước kinh tế - xã hội chuyển biến tích cực, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,… nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, do đó tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả những bài học, kinh nghiệm quý báu của Chiến thắng Bình Giã và các trận đánh, chiến dịch tiêu biểu trong chiến tranh giải phóng dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới:
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, khát vọng phát triển đất nước, sức mạnh con người Việt Nam, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc.
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tập trung chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh 6 vùng chiến lược của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trọng tâm Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Nghiên cứu, tổng kết, vận dụng kinh nghiệm chiến đấu trong các cuộc chiến tranh trên thế giới vừa qua, phát triển nghệ thuật quân sự trong tình hình mới phù hợp với tổ chức, lực lượng, trang bị và cách đánh của Việt Nam. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ và khả năng sắn sàng chiến đấu cho bộ đội. Tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; có tinh thần, ý chí, quyết tâm chiến đấu cao “dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng”. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch và mọi âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống lịch sử cách mạng, tri ân công lao cống hiến, hy sinh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bản lĩnh, trí tuệ, sức mạnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, góp phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.
                                                       BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG-
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM


PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã (02/12/1964 - 02/12/2024) là dịp quan trọng để ôn lại trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến thắng này không chỉ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc mà còn là bài học về lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí quật cường của quân và dân ta.
Theo Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã (02/12/1964 - 02/12/2024) do Ban Tuyên giáo Trung ương và Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp biên soạn, dự báo tình hình thế giới, khu vực trong những năm tới có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, khó dự báo, tác động đến sự ổn định của thế giới, khu vực và mỗi quốc gia. Trong nước, kinh tế - xã hội chuyển biến tích cực, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội… nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, cần tập trung xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả những bài học, kinh nghiệm quý báu của Chiến thắng Bình Giã và các trận đánh, chiến dịch tiêu biểu trong chiến tranh giải phóng dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Bình Giã
Chiến thắng Bình Giã diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đang bước vào giai đoạn cam go nhất. Sau thất bại của kế hoạch bình định và “Chiến tranh đặc biệt” do Mỹ đề xướng, quân và dân ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc phản công và giành thắng lợi. Trong đó, Chiến thắng Bình Giã là một trong những trận đánh tiêu biểu của quân Giải phóng miền Nam, không chỉ mang ý nghĩa chiến thuật mà còn là sự khẳng định rõ ràng về sức mạnh quân sự, ý chí và trí tuệ của cách mạng Việt Nam.
Trận Bình Giã kéo dài từ cuối tháng 12 năm 1964 đến đầu tháng 1 năm 1965 tại địa bàn Bình Giã, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay. Đây là một trận đánh lớn giữa lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn dưới sự hỗ trợ của quân đội Mỹ. Kết quả của trận đánh này là thắng lợi hoàn toàn của Quân Giải phóng, khiến hơn 2.000 lính đối phương bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có nhiều sĩ quan cao cấp. Chiến thắng này đã đánh dấu sự sụp đổ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, buộc đối phương phải thay đổi chiến lược, từ đó góp phần tạo ra những bước ngoặt quan trọng trong toàn bộ cuộc kháng chiến.
Tinh thần của Chiến thắng Bình Giã đã trở thành biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, sự kiên cường và quyết tâm không khuất phục trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Từ sự đoàn kết của quân và dân, đến sự sáng tạo trong chiến lược chiến thuật, chiến thắng này là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của ý chí và tinh thần quật cường của dân tộc Việt Nam.
Trong trận Bình Giã, quân và dân ta đã phát huy tốt các yếu tố chiến lược, kết hợp giữa đánh du kích và đánh chính quy, vận dụng linh hoạt giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng tăng cường từ miền Bắc. Điều này thể hiện tư duy chiến lược sắc bén của quân đội cách mạng, cùng với sự đoàn kết toàn dân, quyết tâm giành chiến thắng dù đối phương được trang bị hiện đại và có sự hỗ trợ trực tiếp của Mỹ.
Tinh thần ấy tiếp tục được thắp sáng trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ và vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. Đó là bài học lớn về lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự lực tự cường, và đặc biệt là sự đoàn kết, thống nhất giữa Đảng, quân đội và nhân dân trong mọi hoàn cảnh. Đây là yếu tố then chốt giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thách thức, giành thắng lợi vẻ vang.
Phát huy tinh thần Chiến thắng Bình Giã trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, tình hình chính trị, kinh tế toàn cầu diễn ra phức tạp và khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và ổn định của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các thách thức về quốc phòng, an ninh, biến đổi khí hậu, sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc cũng đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc phát huy tinh thần Chiến thắng Bình Giã không chỉ mang tính biểu tượng mà còn là nền tảng quan trọng giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong việc xây dựng một đất nước giàu mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng, tinh thần ấy cần được chuyển hóa thành động lực để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chiến thắng Bình Giã để lại nhiều bài học quý báu về tư duy chiến lược, chiến thuật trong chiến tranh. Những kinh nghiệm từ sự sáng tạo, kiên cường trong trận Bình Giã có thể được vận dụng vào việc xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh đất nước đang đối diện với những thách thức mới, việc bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không chỉ nằm ở khía cạnh quân sự mà còn phải kết hợp chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, tạo cơ sở vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là một trong những yếu tố then chốt đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia vững chắc trong mọi tình huống.
Một trong những bài học lớn từ Chiến thắng Bình Giã là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các lực lượng quân và dân. Trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta cần tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bởi đây là nền tảng quan trọng nhất trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh là yếu tố cốt lõi để xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là cơ sở để chúng ta vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, vừa phát triển kinh tế bền vững, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. 
Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
Để bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, việc xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, trở nên vô cùng quan trọng. Chiến lược xây dựng lực lượng vũ trang của Việt Nam phải đảm bảo tính cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, đủ khả năng bảo vệ đất nước trước mọi nguy cơ và thách thức.
Chiến thắng Bình Giã đã cho thấy sự quan trọng của việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng chủ lực. Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, cần ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc để đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy tinh thần Bình Giã không chỉ dừng lại ở lĩnh vực quốc phòng, an ninh mà còn phải lan tỏa ra toàn bộ đời sống xã hội, đặc biệt là trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.
Chúng ta cần tiếp tục xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Với tinh thần ấy, Việt Nam sẽ không ngừng hướng tới một tương lai thịnh vượng, vững mạnh, tiếp tục khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Bình Giã không chỉ là dịp để chúng ta tưởng nhớ và tri ân những anh hùng liệt sĩ, quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà còn là cơ hội để chúng ta nhìn nhận, học hỏi và phát huy những bài học quý báu từ cuộc chiến này vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tinh thần của Chiến thắng Bình Giã mãi mãi là nguồn cảm hứng to lớn cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ phát triển kinh tế, văn hóa đến quốc phòng và an ninh. Với tinh thần ấy, Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước trên con đường xây dựng một đất nước giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

 
KỶ NIỆM 60 NĂM CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ- BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC BẢO ĐẢM HẬU CẦN CÒN NGUYÊN GIÁ TRỊ
Chiến dịch tiến công Bình Giã diễn ra từ ngày 02 tháng 12 năm 1964 đến ngày 03 tháng 01 năm 1965 trên địa bàn các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận. Đây là lần đầu tiên Bộ Chỉ huy Miền tập trung lực lượng lớn, cơ động chiến đấu trên địa bàn rộng, xa hậu phương nên công tác bảo đảm hậu cần được xác định là khâu quan trọng. Khắc phục mọi khó khăn, ngành hậu cần Miền đã kịp thời bảo đảm hậu cần cho mọi hoạt động của các lực lượng tham gia chiến dịch và trực tiếp góp phần làm nên chiến thắng vang dội.
Chiến dịch Bình Giã là một thực tiễn sinh động cho các lực lượng vũ trang B2 rút ra nhiều bài học quý giá, một trong những bài học đó là: Kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần quân đội với hậu cần địa phương và hậu cần nhân dân trong chiến dịch.
Vận dụng phương thức bảo đảm này, chỉ qua 4 tháng chuẩn bị, hậu cần đã đảm bảo cho chiến dịch 500 tấn lương thực, trên 500 tấn vũ khí đạn dược, 2 bệnh viện dã chiến và 1 đội phẫu cơ động với 300 giường bệnh, đủ thuốc cho 600 thương binh; khi kết thúc chiến dịch, đạn, gạo, thuốc đều còn dư là điều rất có ý nghĩa đối với lực lượng vũ trang quân khu còn ở lại chiến trường hoạt động.
Để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, đồng chí Nguyễn Văn Hương (Sáu Hương), Trưởng phòng Tham mưu Cục Hậu cần Miền được cử làm Chủ nhiệm Hậu cần chiến dịch. Quá trình chuẩn bị, Hậu cần chiến dịch sử dụng lực lượng của Ban Quân nhu Khu B làm nòng cốt, kết hợp với Hậu cần Quân khu 7, Hậu cần Tỉnh đội Bà Rịa với các đoàn hậu cần và 2.000 dân công được huy động làm công tác bảo đảm. Ngày 10 tháng 12 năm 1964, Cục Hậu cần Miền được thành lập, bốn khu vực hậu cần (A, B, C, E) trực thuộc Cục, được bổ sung lực lượng cho các ngành quân nhu, quân y, quân giới, vận tải và chuyển thành “Đoàn hậu cần khu vực”. Khu A chuyển thành Đoàn hậu cần 81 (Đoàn 81), Khu B là Đoàn hậu cần 82 (Đoàn 82), Khu C là Đoàn hậu cần 83 (Đoàn 83), Đoàn 1500, Đoàn K10. Các đoàn hậu cần Miền và quân khu dựa vào địa phương để huy động nhân vật lực trong vùng giải phóng, vùng tạm chiếm, đồng thời khẩn trương tiếp nhận nguồn vũ khí chi viện của Trung ương.
Trong quá trình chuẩn bị vật chất cho chiến dịch, khó khăn lớn nhất là vấn đề tạo nguồn lương thực. Trung ương Cục xác định người và lương thực có vai trò “quyết định đến tác chiến”. Trong khi đó các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh là vùng đồi núi ven biển, đời sống nhân dân còn nghèo. Nguồn lương thực có thể cung cấp cho chiến dịch tập trung chủ yếu ở các huyện Long Đất, Châu Thành nhưng lại bị địch kiểm soát khá gắt gao. Ở đây, địch không cho lưu thông gạo tự do, mỗi hộ dân có một số gạo và chỉ được mua đủ số lương thực do chúng khống chế. Do vậy, công tác bảo đảm ăn cho một chiến dịch lớn, dài ngày với quân số đông rất khó khăn, trong khi đó lực lượng hậu cần của chiến trường chưa có kinh nghiệm tổ chức bảo đảm cho tác chiến chiến dịch.
Để giải quyết vấn đề này, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo lực lượng hậu cần chiến dịch, dựa vào dân, tổ chức khai thác sức mạnh trong quân chúng cách mạng, làm cơ sở cho việc tiến hành công tác chuẩn bị. Dự kiến thu mua dự trữ gạo, muối theo quy định ở các vùng Phước Chí, Hắc Dịch, Anh Mao, Nam Mây Tàu, Bến Kẽ, Phước Thọ và khu vực Đoàn 1500. 
Với sự nỗ lực, chủ động và phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, đến ngày 20 tháng 11 năm 1964, về cơ bản ta đã hoàn thành công tác chuẩn bị, trong đó, vận chuyển được 500 tấn vũ khí, hơn 500 tấn lương thực..., kịp thời bảo đảm cho các đơn vị vào vị trí tập kết đúng quy định: Trung đoàn 761 ở Nam Xuân Sơn, Trung đoàn 762 ở Đông Nam núi Nghệ, pháo binh ở Vạn Kiếp và Tây Bắc Đức Thạnh; Sở chỉ huy chiến dịch đặt ở núi Nưa. Đến trước ngày bộ đội nổ súng, chiến dịch đã chuẩn bị sẵn ở khu kho Hắc Dịch được 300 tấn vũ khí, đạn dược. Số vũ khí này là do miền Bắc chi viện bằng đường biển vào.
 Về bảo đảm quân y, trong chiến dịch đã có cuộc vận động nuôi quân phòng bệnh có tác dụng tốt bảo đảm sức khỏe cho bộ đội trong suốt cả chiến dịch. Chiến dịch tổ chức ra cơ quan quân y, dựa vào cơ sở, phối hợp với y tế tỉnh, huyện trên địa bàn triển khai lực lượng bảo đảm phục vụ chiến dịch. Quân y sử dụng 3 đội phẫu Khu E và lực lượng của Miền tăng cường, tổ chức ra đội phẫu cơ động và bệnh viện dã chiến với 300 giường có đủ thuốc và máu khô cứu chữa cho 600 thương binh. Tỉnh Bà Rịa sử dụng 1 bệnh xá và 80 học viên lớp y tá, tổ chức thành 2 bệnh viện dã chiến, bố trí trên hướng Đông và hướng Tây Đường số 2 của chiến dịch.
Trong quá trình chiến dịch, được sự chi viện kịp thời của hậu cần Miền và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, lực lượng hậu cần còn móc nối với các thương gia trong thành phố Sài Gòn - Gia Định để thu mua thóc gạo, thực phẩm và sử dụng xe ô tô, xe lam của tư nhân vận chuyển từ thành phố đưa lên Bà Rịa. Ở những nơi xung yếu, ta bố trí lực lượng binh vận, khống chế làm vô hiệu hóa những đồn bốt, tháp canh của địch. Khu vực gần thị xã Bà Rịa trên Đường số 2 là nơi tiếp nhận nhộn nhịp nhất. Gạo, thực phẩm đóng bao được chất thành từng đống ở bìa rừng để đêm xuống từng đoàn xe bò, xe máy có rơ moóc chuyển về các điểm kho quy định. Trên Đường số 1, ta tổ chức lực lượng chặn đánh các đoàn “công-voa" chở hàng tiếp tế của quân đội Sài Gòn. Có lần ta thu của chúng hàng chục xe gạo, bột mì và nhiều nhu yếu phẩm khác. Trong chiến dịch, bộ đội và nhân dân chuyển 660 chuyến xe đạp thồ được 60 tấn, 132 chuyến thuyền được 67 tấn, nhân dân chuyển 1.450 chuyến xe bò được 276 tấn. Đội xe C63 (Đoàn 81) vận chuyển được 500 tấn vật chất chủ yếu là gạo, giao cho quân nhu khu E ở khu vực sông Đồng Nai. Cán bộ binh vận móc nối và tranh thủ được một số sĩ quan quân đội Sài Gòn, dùng xe vận tải quân sự của chúng chở gạo từ Sài Gòn và thị xã Bà Rịa đến địa điểm tiếp nhận bằng cách hợp pháp được 200 tấn.
Kết thúc chiến dịch, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.700 tên địch, bắt gần 300 tên, bắn rơi, phá hỏng 56 máy bay (chủ yếu là máy bay trực thăng), phá hủy 43 xe quân sự (phần lớn là xe thiết giáp M113) và 2 xe tăng M41, thu hơn 1.000 súng các loại và gần 100 máy thông tin, trên 5 vạn viên đạn...
Trong chiến dịch, bộ đội ta đã vận dụng linh hoạt phương pháp bảo đảm tác chiến chiến dịch, phát huy sức mạnh của ba thứ quân để lại nhiều kinh nghiệm quý cho các chiến dịch tiếp sau. Trong Chiến dịch Bình Giã, lần đầu tiên ở Nam Bộ, tổ chức hậu cần triển khai tương đối đồng bộ các ngành nghiệp vụ bảo đảm, các cơ sở kho tàng, bệnh xá, quân giới... Lực lượng chiến dịch đã chuẩn bị và bảo đảm cho toàn bộ chiến dịch được 750 tấn lương thực thực phẩm, trong đó có 250 tấn khai thác từ trong thành phố Sài Gòn - Gia Định, vượt so với kế hoạch ban đầu. Sau chiến dịch, hậu cần chiến dịch còn thừa gần 100 tấn gạo, trên 200 cơ số thuốc cứu thương giao lại cho hậu cần Quân khu 7. Qua chiến dịch này, ngành hậu cần Miền đã rút nhiều kinh nghiệm quý trong việc tổ chức lực lượng, bố trí kho trạm, thực hành bảo đảm cho hoạt động quy mô lớn của bộ đội, đặc biệt là công tác hiệp đồng giữa các lực lượng, dựa chắc vào dân để tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng chung lo nhiệm vụ.
Ngày nay nghiên cứu công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch đều được đúc rút, kế thừa kinh nghiệm công tác bảo đảm hậu cần từ các chiến dịch trong chiến tranh giải phóng trước đây, đặc biệt là công tác bảo đảm hậu cần cho Chiến dịch Bình Giã. Vận dụng vào quá trình huấn luyện tại Học viện Lục quân, giảng viên Khoa Hậu cần - Kỹ thuật ngoài việc truyền đạt các kiến thức về bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cấp chiến thuật, chiến dịch còn giới thiệu cho học viên những chiến lệ trong thực tiễn mà các thế hệ cha anh chúng ta đã có được, đó là những bài học vô cùng quý giá, trang bị cho học viên về niềm tin về kiến thức, kinh nghiệm bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cũng như niềm tin về nghệ thuật quân sự Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trong thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, quân dân đoàn kết nhất định giành mọi thắng lợi./.
Nguồn: https://hvlq.vn/





 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Cách đây 60 năm, tại chiến trường trọng điểm miền Đông Nam Bộ, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền, quân và dân ta đã lập nên Chiến thắng Bình Giã-một trong những chiến công quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực Miền, đồng thời là một trong những chiến dịch đầu tiên của LLVT cách mạng trên chiến trường miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã đánh dấu bước phát triển về lực lượng, phương pháp tác chiến tập trung và khẳng định vai trò của LLVT nói chung, bộ đội chủ lực nói riêng trong thực hiện đường lối cách mạng miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và để lại nhiều bài học đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội hiện nay:
Một là, chủ động nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình, đề ra chủ trương, biện pháp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
Sau Đồng khởi năm 1960, phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam ngày càng lớn mạnh, chiến tranh du kích phát triển đều khắp trên các chiến trường. Tháng 9-1964, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn về cách mạng miền Nam, chủ trương: Tranh thủ thời cơ, cố gắng đánh bại hoàn toàn ngụy quân trước khi quân Mỹ nhảy vào. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Bình Giã trên địa bàn Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực, phá kế hoạch bình định, phá ấp chiến lược của địch, hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ, đánh bại chỗ dựa cơ bản của quân Mỹ trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
Chuẩn bị cho chiến dịch, Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền đã cử cán bộ cùng Bộ tư lệnh chiến dịch nghiên cứu xây dựng phương án tác chiến. Ban đầu dự kiến hướng chính của chiến dịch là Chi khu Xuyên Mộc, tiếp đó là Chi khu Đất Đỏ. Sau trinh sát thực địa, Bộ chỉ huy Miền và Bộ tư lệnh chiến dịch nhận thấy, cả hai chi khu này cơ bản được xây dựng rất kiên cố, canh phòng cẩn mật, nếu tập trung đánh vào đây thì khả năng giành thắng lợi không cao.
Trong khi đó, ấp chiến lược Bình Giã (thuộc Chi khu Đức Thạnh) có ý nghĩa quan trọng cả về quân sự và chính trị, một mắt xích trong hệ thống phòng thủ phía Đông Sài Gòn, nên đã quyết định chọn nơi đây làm điểm khêu ngòi chiến dịch. Phương pháp tác chiến là “đánh điểm, diệt viện”, lấy đánh địch ngoài công sự là chủ yếu, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật phục kích, vận động tiến công đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch trên quy mô chiến dịch. Sau quá trình khẩn trương chuẩn bị, tạo thế chiến dịch, ngày 2-12-1964, ta nổ súng tiến công địch. Bằng chiến dịch tiến công tổng hợp, sau hơn một tháng chiến đấu liên tục, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vang dội.
Hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt. Đặc biệt, một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực hải quân với những thế hệ vũ khí mới. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều hình thức chiến tranh mới làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc.
Trước tình hình đó, Quân đội phải tích cực nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, nghệ thuật quân sự; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định và thực hiện đường lối, chiến lược, chủ động, tích cực bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi đất nước chưa nguy; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển toàn diện đất nước. Đồng thời chủ động nghiên cứu, dự kiến các tình huống, biện pháp đối phó hiệu quả với mọi tình huống về quân sự, quốc phòng cả trên không, trên đất liền, trên biển, đảo và trên không gian mạng. Có đối sách xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống với tinh thần không để bị động, bất ngờ về chiến lược; không lúng túng, chậm trễ xử lý các vấn đề chiến thuật và tình huống đột xuất về quân sự, quốc phòng.
Hai là, coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội
Quán triệt sâu sắc quyết tâm tiến công của Bộ Chính trị, Trung ương Cục, Đảng ủy-Bộ chỉ huy Miền, Đảng ủy-Bộ tư lệnh chiến dịch đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho bộ đội ý chí quyết tâm chiến đấu cao, bản lĩnh, tâm lý vững vàng, làm cho bộ đội thấy rõ đòi hỏi của chiến trường lúc này là phải tập trung đánh lớn để tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân ngụy, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa, tạo cục diện mới, thúc đẩy chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển.
Theo đó, các đơn vị tập trung quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, phát huy trí tuệ, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, bám sát từng nhiệm vụ, bàn bạc, giải quyết với nhiều biện pháp sáng tạo, hiệu quả. Trong giáo dục chính trị, tư tưởng, các đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tinh thần đoàn kết, hiệp đồng, ý thức cảnh giác, giữ bí mật, chấp hành kỷ luật chiến trường và thực hiện đúng chính sách trong chiến đấu; kịp thời và kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tư tưởng ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh. Thường xuyên chăm lo, động viên cán bộ, chiến sĩ, phát động phong trào thi đua lập công, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu, khẩu hiệu hành động sát với từng đơn vị, từng đợt và từng trận đánh.
Từng cá nhân, đơn vị tự viết quyết tâm thư; khẩu hiệu hành động: “Chặn thật chắc, khóa thật chặt, cắt thật bén”; “Đi là chiến thắng, đánh là dứt điểm”... sớm lan rộng, trở thành phong trào chung ở các đơn vị tham gia chiến dịch. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chủ lực và địa phương luôn bám sát nhiệm vụ, từng đối tượng; cả tuyến trước, tuyến sau, cả trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nên đã kịp thời tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội. Vì thế, trong chiến đấu, bộ đội đã thể hiện rõ ý chí, tinh thần anh dũng, không sợ hy sinh, gian khổ, quyết chiến đấu giành chiến thắng, tiêu diệt toàn bộ Chi đoàn 3 thiết giáp và Tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến đi ứng cứu, chi viện cho ấp Bình Giã.
Bài học về coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Chiến dịch Bình Giã vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay khi các thế lực thù địch thường xuyên, tăng cường thực hiện “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, “phi chính trị hóa” Quân đội... Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, vững tin vào sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; gắn bó mật thiết với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của nhân dân. Thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm Quy chế 775 ngày 12-5-2022 của Tổng cục Chính trị “Về công tác quản lý tư tưởng quân nhân; nắm và định hướng dư luận trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, để mỗi cán bộ, chiến sĩ phải là một “pháo đài” vững chắc, kịp thời phát hiện, chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.
Cùng với đó, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho bộ đội; thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, củng cố mối đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân; thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất.
Ba là, thường xuyên kiện toàn về tổ chức lực lượng, đẩy mạnh công tác huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội
Để đáp ứng yêu cầu của chiến dịch, công tác củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức được Đảng ủy, Bộ tư lệnh chiến dịch tiến hành thường xuyên, kịp thời sau từng trận chiến đấu, từng đợt chiến dịch, bảo đảm sức chiến đấu được liên tục, vững chắc.
Trước chiến dịch, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền đã quyết định thành lập Đảng ủy, Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí cán bộ chủ chốt của các đơn vị Quân đội và các đồng chí bí thư, phó bí thư khu ủy, tỉnh ủy trên địa bàn chiến dịch. Chuẩn bị cho chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch đã điều động Trung đoàn 761 và Trung đoàn 762 của Miền về địa bàn tỉnh Bà Rịa để tạo sức mạnh tiêu diệt lớn quân địch trên hướng chủ yếu. Đồng thời chỉ đạo chủ lực của Quân khu 6, Quân khu 7, bộ đội địa phương tỉnh và du kích địa phương phối hợp với quần chúng tiến công địch trên diện rộng, ngay trước và trong chiến dịch. Nhờ đó, ta đã căng kéo, nhử được địch ra khỏi căn cứ, tạo điều kiện cho chủ lực tiến công và đẩy mạnh phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng.
Cuối năm 1964, trên địa bàn hai tỉnh Bà Rịa và Biên Hòa, địch tổ chức một khu quân sự, trực thuộc Quân đoàn 3. Ngoài lực lượng địa phương quân, địch tăng cường sinh lực và được trang bị xe thiết giáp M-113, pháo 105mm, máy bay trực thăng và nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại... Về phía ta, ngoài một số vũ khí thu được của địch từ các trận đánh trước, bộ đội đã được trang bị đầy đủ súng bộ binh và các loại hỏa khí đi cùng. Do đó, việc huấn luyện kỹ năng sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị, khí tài và tác chiến hiệp đồng binh chủng được chỉ huy các cấp hết sức quan tâm. Ngày 28-12-1964, trong đợt 2 của chiến dịch, khi địch đổ quân ở Đông Bắc ấp Bình Giã, chỉ với súng 14,5mm và đại liên, ta đã bắn rơi tại chỗ 5 trực thăng chở quân; chiều 30-12-1964, ta bắn rơi thêm 1 trực thăng chở tốp sĩ quan địch bằng súng máy phòng không... Kết quả đó là minh chứng rõ nét cho vai trò của công tác huấn luyện bộ đội, góp phần quan trọng cho việc phát triển các đơn vị chủ lực lên cấp sư đoàn, quân đoàn sau này.
Vận dụng bài học về tổ chức, huấn luyện lực lượng trong Chiến dịch Bình Giã, trong xây dựng Quân đội hiện nay, cần quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết 230 ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương, Kế hoạch 1228 ngày 25-4-2022 của Bộ Quốc phòng về lãnh đạo tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đồng thời quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 1659 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về "Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo”. Chú trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; huấn luyện đêm, huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại; kết hợp huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị và rèn luyện thể lực bộ đội, nâng cao bản lĩnh, quyết tâm và khả năng cơ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh; thực hiện phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Cùng với đó, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp huấn luyện phù hợp với tổ chức, biên chế, trang bị và sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đối với cán bộ, chỉ huy các cấp, phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, năng lực toàn diện về lãnh đạo, chỉ huy, điều hành đơn vị; trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng tác chiến, xử trí tình huống trong tác chiến đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.
Bốn là, phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo đảm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền luôn xác định: Xây dựng mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa cấp ủy với bộ đội chủ lực, LLVT và nhân dân địa phương là một yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ. Do đó, khi thành lập Bộ tư lệnh chiến dịch, ngoài những đồng chí ở đơn vị chủ lực còn có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo ở địa phương như: Nguyễn Văn Chí, Thường vụ Khu ủy Khu 7; Lê Minh Hà, Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa. Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng 2 Trung đoàn bộ binh 761 và 762, Đoàn Pháo binh 80, 2 Tiểu đoàn bộ binh 500 và 800 chủ lực Quân khu 7, Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu 6, Đại đội 445 bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng lực lượng dân quân du kích trên địa bàn chiến dịch.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng ủy, Bộ tư lệnh chiến dịch, các lực lượng tham gia chiến dịch đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, phát huy được sức mạnh tổng hợp trong các giai đoạn chiến dịch. Trong giai đoạn tạo thế, Đoàn  Pháo binh 80 tập kích sân bay Biên Hòa, Quân khu miền Đông mở nhiều cuộc tiến công địch ở Hoài Đức, Gia Định, Tây Ninh... tiêu hao nhiều sinh lực địch, buộc chúng phải phân tán, căng kéo lực lượng đối phó. Tận dụng thời cơ, các đơn vị tham gia chiến dịch trên nhiều hướng bí mật cơ động về Bà Rịa, triển khai đội hình xuất phát tiến công đúng ý định, bảo đảm bí mật, tạo bất ngờ lớn cho địch.
Trong giai đoạn thực hành tác chiến, nắm chắc thời cơ, Trung đoàn 761 (thiếu) và Trung đoàn 762 đã phối hợp nghi binh, tạo thế, lừa dụ địch, thực hiện thành công các trận then chốt chiến dịch tiêu diệt lớn sinh lực địch ngoài công sự; phối hợp cùng địa phương phá các ấp chiến lược Bình Giã, Đức Mỹ, An Phú, làm tan rã lực lượng dân vệ của địch. Biệt động của ta ở Bà Rịa cũng tăng cường hoạt động, diệt ác, phá tề, hỗ trợ cho hoạt động tác chiến của chiến dịch phát triển thuận lợi.
Phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, cấp ủy, chính quyền các địa phương sử dụng LLVT tại chỗ nhổ đồn, bốt, phá ấp chiến lược, phát triển chiến tranh du kích, mở rộng phạm vi hoạt động. Các hình thức đấu tranh chính trị được vận dụng linh hoạt, hỗ trợ hiệu quả cho đấu tranh quân sự. Nhân dân tỉnh Bà Rịa hăng hái tham gia phục vụ chiến đấu, không quản hiểm nguy bảo đảm hậu cần cho bộ đội và vận chuyển thương binh, tử sĩ, đạn dược phục vụ kịp thời cho chiến dịch.
Kế thừa và phát huy bài học về phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong Chiến dịch Bình Giã, trong xây dựng Quân đội hiện nay cần tiếp tục quán triệt, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Tăng cường phối hợp giữa LLVT với các cơ quan dân, chính, đảng, tổ chức, đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân trong khu vực phòng thủ trên từng địa bàn, hướng chiến lược, tỉnh, thành phố vững chắc. Phát huy vai trò, khả năng, sở trường của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng.
6 thập kỷ đã qua đi, Chiến thắng Bình Giã mãi là trang sử oanh liệt của quân và dân ta; là chỉ dấu quan trọng về sự thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam, như đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhận định: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong "Chiến tranh đặc biệt”. Những bài học được rút ra từ Chiến thắng Bình Giã đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù hợp, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguồn: https://www.qdnd.vn/



 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ- ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Kỳ 1: Bản kế hoạch đầy tham vọng
 
Để hiểu rõ ý nghĩa chiến lược của Chiến thắng Bình Giã, phải bắt đầu từ bản kế hoạch đầy tham vọng của chính quyền John Kennedy (phê duyệt từ tháng 5/1961) mở đầu của cái gọi là chiến lược Chiến tranh đặc biệt. 
Staley - Taylor với tham vọng 18 tháng bình định miền Nam
Sau Đồng khởi ở miền Nam, đế quốc Mỹ lúng túng về chiến lược. Tháng 5/1961, chính quyền John Kennedy công bố Kế hoạch Staley-Taylor (đặt theo tên 2 người soạn thảo là nhà kinh tế học Eugene Staley và Đại tướng Maxwell D. Taylor), thực hiện chiến lược Chiến tranh đặc biệt, quyết bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
Công thức của chiến lược Chiến tranh đặc biệt là: ngụy quân cộng với vũ khí Mỹ, đặt dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ. Biện pháp trung tâm là xây dựng ấp chiến lược nhằm tách quân du kích của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khỏi nông dân, cắt đứt mối liên kết giữa người dân và du kích.
Nội dung của kế hoạch là bình định và triển khai hệ thống ấp chiến lược, xây dựng 16.000 ấp chiến lược trên toàn miền Nam. Triển khai kế hoạch này, trong năm 1961, quân số ngụy Sài Gòn tăng lên đến 20 vạn, được trang bị vũ khí hiện đại, tổ chức thành 7 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 8.000 tên bảo an, 7.000 dân vệ. Miền Đông Nam Bộ được bố trí thành một hệ thống phòng thủ mạnh, trực tiếp bảo vệ Sài Gòn.
Ngụy quyền Sài Gòn thực hiện chương trình ấp chiến lược một cách ráo riết với mục tiêu cơ bản là “tát nước, bắt cá” nhằm cô lập và tiêu diệt các cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng, lôi kéo quần chúng về với “quốc gia” bằng một loạt biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và tâm lý. Các tỉnh vành đai quanh Sài Gòn như Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Phước Thành, Biên Hòa, Phước Tuy (Bà Rịa) là trọng điểm “gom dân, lập ấp chiến lược" của Mỹ- ngụy. 
Tại Bà Rịa, cùng với việc xây dựng hàng loạt ấp chiến lược kiểu mẫu ở Long Đất, ngụy quyền cho xây dựng ấp chiến lược kiểu mẫu tại Bình Giã. Tháng 3/1963, tại khu vực Lộ 2, ngụy quyền thiết lập quận lỵ và chi khu Đức Thạnh tại Ngãi Giao và xây dựng ấp chiến lược Đức Thạnh quy mô ở trung tâm khu vực Lộ 2, gom đồng bào dân tộc Châu Ro sống rải rác các nơi về tập trung quanh chi khu Đức Thạnh, gom đồng bào ấp 3, ấp 4 (xã Ngãi Giao) về ấp Đường Cùng.
Đối với các sở cao su, địch gom công nhân ở các sở nhỏ về tập trung tại trung tâm đồn điền Bình Ba, Xà Bang, Xuân Sơn... để lập ấp. Địch tăng cường bắt lính, xây dựng, mở rộng hàng loạt đồn bót, ráo riết chuẩn bị kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược. Chúng xây dựng trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở ngay sát nội ô TX. Bà Rịa. Trung tâm này vừa là nơi đào tạo hàng ngàn hạ sĩ quan và binh lính ngụy, vừa là địa điểm đóng quân của địch, sẵn sàng hành quân tác chiến, càn quét các địa phương trong tỉnh.
Hàng loạt ấp chiến lược mọc lên giống như các trại tập trung lớn, có bờ đê cao, hào sâu cắm chông, hàng rào kẽm gai gài mìn, lựu đạn, có vọng gác, đồn bốt kiên cố. Kìm kẹp trong mỗi ấp là một bộ máy hành chính và quân sự, kết hợp với một đoàn cán bộ bình định nông thôn, mỗi ấp khoảng 30 tên gồm công an, mật vụ, công dân vụ, tâm lý chiến. Đồng bào trong ấp phải ở theo từng liên gia, có bảng phân loại gia đình treo trước cửa, gia đình có con theo cách mạng bị kiểm soát ngặt nghèo.
Giằng co quyết liệt
Hội nghị Trung ương Cục miền Nam tháng 4/1962 xác định 3 nhiệm vụ cụ thể: làm thất bại kế hoạch địch gom dân lập ấp chiến lược; ra sức xây dựng, mở rộng căn cứ địa; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân. Trong đó, nhiệm vụ phá ấp chiến lược là nhiệm vụ trọng tâm.
Cuộc đấu tranh chống địch gom dân, lập ấp chiến lược diễn ra quyết liệt, địch làm, ta phá, giằng co trong suốt những tháng cuối năm 1962, đã làm phá sản một bước kế hoạch “bình định” nông thôn của Mỹ - ngụy ở địa phương. Ấp chiến lược của địch bị phá đi phá lại nhiều lần nhưng do tương quan lực lượng, ta vẫn chưa phá dứt điểm. Đến năm1963, địch cơ bản hình thành hệ thống ấp chiến lược, nhất là các trọng điểm dọc theo đường giao thông.
Long Đất là trọng điểm chống phá ấp chiến lược của tỉnh. Phong trào chống phá ấp chiến lược lên cao, có đêm có từ 500 - 600 người kéo về phá ấp chiến lược. Hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục chính trị cho quần chúng, công tác bình vận và tuyên truyền vũ trang được tiến hành đồng bộ nên thế kìm kẹp của địch ở địa bàn được phá rã, phá lỏng.
Cuối năm 1963, Trung ương Cục quyết định tách tỉnh Bà Biên thành các tỉnh Bà Rịa và Biên Hòa. Ban Cán sự Tỉnh đội tiếp tục phát động đợt phá ấp chiến lược mạnh mẽ trên phạm vi toàn tỉnh.
Ở khu vực Lộ 2, lực lượng tự vệ cao su vận động tuyên truyền số thanh niên chiến đấu ở ấp chiến lược Đồng Ngọc Khải làm nội ứng để quân ta tiến công ấp chiến lược này. Một bộ phận của Đại đội 445 phối hợp với lực lượng tự vệ cao su bí mật tổ chức tiến công ấp chiến lược vào đêm 1/11/1963, diệt gọn 1 trung đội bảo an, thu 40 súng các loại. Cùng đêm, du kích Bình Ba đột nhập vào ấp chiến lược Đức Mỹ, phát động quần chúng công nhân, nông dân nổi dậy san phẳng ấp chiến lược, làm chủ đồn điển Bình Ba. Tranh thủ thời cơ, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích các xã đồng loạt tiến công các đồn bót giặc dọc theo trục Liên tỉnh lộ số 2 từ Hòa Long cho đến Cẩm Mỹ.
Tại Ngãi Giao, kết hợp chẽ ba mũi giáp công, nhân dân đã nổi dậy phá banh các ấp chiến lược ở dốc 30, Đường Cùng, Huỳnh Hương, Vĩnh Thanh. Tháng 12/1963, bộ đội huyện phối hợp với du kích xã tiến công diệt đồn dân vệ của địch ở Sông Cầu, giải phóng ấp. 
Hầu hết các ấp chiến lược ở Đông và Tây Liên tỉnh lộ 2, đều bị phá rã hoặc phá banh. Các xã dọc theo Lộ 2, cơ bản ta đã hoàn toàn làm chủ. Vùng giải phóng được mở ra, nhân dân phấn khởi sản xuất, ủng hộ cách mạng, xây dựng hầm hào chiến đấu, phát triển lực lượng dân quân du kích, bảo vệ quê hương.
Sau sự kiện Ấp Bắc và việc chính quyền Ngô Đình Diệm bị đảo chính lật đổ, Kế hoạch Staley - Taylor từng bước đi vào rối loạn. "Cha đẻ" của bản kế hoạch - tướng Maxwell Davenport Taylor từng mạnh miệng tuyên bố sẽ bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, cũng tỏ ra "chán ngấy" trước tình hình... Dù vậy tham vọng của Mỹ chưa dừng lại ở đó. Và một kế hoạch mới mang tên Jonhson - Mc. Namara tiếp tục được đệ trình.
Nguồn: https://mattran.baria-vungtau.gov.vn/




 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Kỳ 2: Ba mũi giáp công giải phóng ấp chiến lược
 
Kế hoạch Staley-Taylor phá sản, Bộ Quốc phòng Mỹ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng kế hoạch Johnson-Mc.Namara” với mục tiêu bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964-1965).
“Thay ngựa giữa dòng”
Sự kiện Ấp Bắc đầu năm 1963 mở ra phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công" trên toàn miền Nam, đẩy kế hoạch Staley-Taylor đi đến phá sản. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Johnson Mc.Namara dẫn đầu một phái đoàn sang nghiên cứu tình hình chiến trường và đưa ra "Kế hoạch Johnson-Mc.Namara" nhằm bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964-1965). Kế hoạch tập trung vào việc: tăng cường chỉ huy trực tiếp của Mỹ, tăng quân số cho quân đội Sài Gòn; xúc tiến hơn nữa lập ấp chiến lược, bình định các tỉnh xung quanh Sài Gòn; dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam và Lào gây sức ép buộc miền Bắc phải ngừng chi viện cho miền Nam.
Cuối năm 1963, phong trào cách mạng ở miền Nam có bước phát triển mạnh mẽ. Ngụy quân, ngụy quyền tay sai lâm vào khủng hoảng trầm trọng sau khi chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1/11/1963). Các phe phái ngụy Sài Gòn tiếp tục tranh giành quyền lực. Năm 1964 có tới 9 cuộc âm mưu đảo chính, trong đó 5 lần phải “thay ngựa giữa dòng”.
Địch suy yếu nghiêm trọng về chính trị, nhưng còn mạnh về quân sự. “Quốc sách” ấp chiến lược thất bại thảm hại, Mỹ-ngụy quay sang thực hiện kế hoạch “bình định có trọng điểm”. Trong năm 1964, Mỹ tập trung xây dựng cho ngụy lực lượng 471.000 quân, gồm 245.000 chủ lực, 226.000 bảo an. Ngoài ra còn có hàng vạn cố vấn, đặc nhiệm Mỹ hỗ trợ cho quân ngụy tiến hành chiến tranh. Địch đôn lực lượng vào càn quét bình định, trọng điểm là các vùng quanh Sài Gòn, Long An, Mỹ Tho, Kiến An, Kiến Tường, Bến Tre và Hậu Giang. Năm 1964, địch mở 6.492 trận càn từ cấp tiểu đoàn đến sư đoàn, trong đó 74% số trận được tiến hành ở Nam Bộ, nơi có các trọng điểm bình định.
Chúng ráo riết đôn quân bắt lính, số tân binh ở trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp tăng nhanh, thường xuyên có từ 5.000-10.000 tên. Các cứ điểm quân sự như khu Phước Biên, chi khu Đức Thạnh, Long Lễ được bổ sung thêm hàng đại đội lính biệt kích, thám báo, biệt động… chiếm giữ càn quét bên ngoài thế chân cho bọn bảo an dân vệ ruồng bố, phòng vệ bên trong. Tại Bà Rịa, pháo địch ở Phú Mỹ, Bà Rịa, Ông Trịnh ngày đêm bắn phá, gieo rắc nhiều tai họa cho Nhân dân. Long Đất và Châu Thành là những “trọng điểm bình định” của địch.
Ba mũi giáp công phá ấp chiến lược
Phía ta, phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị: Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... tiếp tục lên cao, thu hút mọi tầng lớp Nhân dân tham gia, đặc biệt, sau khi Nguyễn Khánh ra những sắc lệnh phát xít mới và chính quyền ngụy sát hại nhà yêu nước Nguyễn Văn Trỗi (15/10/1964). Trên mặt trận chống phá “bình định”, trong năm 1964, từng mảng lớn ấp chiến lược do địch lập nên đã bị ta phá; nhiều ấp chiến lược trở thành căn cứ cách mạng, vùng tự do của ta ngày càng được mở rộng.
Tại Bà Rịa, thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục về chống, phá ấp chiến lược, đầu năm 1964, Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập Đại đội 440, quân số, vũ khí được tách từ Đại đội 445 và nguồn bổ sung từ bộ đội huyện. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy về chống, phá ấp chiến lược, lực lượng vũ trang tỉnh và các huyện mở đợt cao điểm liên tục tấn công địch. 
Được sự chi viện của bộ đội tỉnh, Đại đội 25 bộ đội huyện Long Đất phục kích tại Cầu Ngang (xã An Nhứt) chặn đánh bọn công an, cảnh sát từ Long Điền chi viện. Trên hướng lộ 44, địch ở chi khu Đất Đỏ đưa 1 đại đội bảo an lên càn thọc sâu vào Long Mỹ hỗ trợ cho bọn tề xã, ấp làm lại ấp chiến lược. Đại đội 25 và du kích Long Mỹ tổ chức thành 3 mũi bao vây địch tại khu mả Ông Đại (Bàu Tây), diệt gọn đại đội bảo an.
Tại TT.Long Điền, du kích xã nổ súng tiến công đội thanh niên chiến đấu, bắt sống 4 tên, thu 8 súng. Trong các ấp chiến lược, cán bộ, du kích đột nhập tiến hành vũ trang tuyên truyền, giải tán các đội thanh niên chiến đấu.
Tháng 5/1964, bộ đội huyện kết hợp du kích xã tiến công vào 2 bót An Ngãi và Tam Phước. Tại Phước Hải, cơ sở mật trong xã đã đưa 2 trung đội bộ đội huyện ém quân bí mật, phục kích diệt gọn 1 trung đội bảo an.
Giữa năm 1964, hầu hết các ấp chiến lược ở Long Đất mất hiệu lực, nhiều ấp ở Đất Đỏ bị phá banh. Bọn tề ngụy ở xã, ấp trong huyện Long Đất gần như tan rã. Ta giải phóng cơ bản các trục lộ 23, 52. Địch co cụm vào các chi khu Long Điền, chi khu Đất Đỏ và các đồn: Con Ó, Phước Hải, Bờ Đập, Phước Tỉnh, Long Hải, An Nhứt, An Ngãi.
Tại huyện Xuyên Mộc, lực lượng vũ trang tỉnh, bộ đội huyện cùng với du kích, Nhân dân địa phương tiến đánh, giải phóng ấp chiến lược Láng Găng (Bình Châu), Bưng Riềng, Gò Cà (Xóm Rẫy), Bà Tô, Bàu Lâm… Đến giữa năm 1964, quân và dân Xuyên Mộc phá hầu hết các ấp chiến lược trên toàn huyện, giải phóng 2/3 dân cư và đất đai.
Ở vùng Tam Long, Đại đội 20 bộ đội huyện Châu Thành với sự hỗ trợ của một phân đội Đại đội 445 bộ đội tỉnh phục kích tại ấp Bắc (xã Hòa Long) tiêu diệt ác ôn, bắt 8 dân vệ, thu vũ khí. Ban chỉ đạo đấu tranh chính trị huyện Châu Thành tổ chức cuộc đấu tranh lớn vào tháng 5/1964, với hơn 2.000 người tham gia, từ Ngãi Giao, Xuân Sơn, Bình Ba, Hòa Long, Long Phước kéo về tỉnh lỵ đấu tranh chống bắn pháo vào xóm ấp.
Nhằm hỗ trợ cho đợt hoạt động mở vùng của Bà Rịa, Quân khu 7 điều tiểu đoàn chủ lực D.800 về hoạt động trên hướng lộ 15. Tháng 6/1964, du kích Mỹ Xuân và bộ đội huyện Châu Thành phối hợp tiểu đoàn 800 phục kích tại khu vực Đại Tùng Lâm, phá hủy 25 xe quân sự, diệt hơn 100 tên địch, phá hủy 3 khẩu 105 ly... Lực lượng du kích Phước Hòa, Hội Bài, Mỹ Xuân hỗ trợ cho quân và dân Long Sơn phá rã ấp chiến lược, đưa nhiều thanh niên chiến đấu ra sống bất hợp pháp ở Rừng Sác.
Tháng 7/1964, địch đưa lực lượng bộ binh và bảo an từ quân lỵ Đức Thạnh hành quân xuống lấn chiếm Bình Ba. Đại đội 445 bộ đội tỉnh và du kích chặn đánh tiêu diệt, bắt sống nhiều tên, thu nhiều vũ khí. Quân và dân Long Phước kiên trì ba mũi giáp công, bao vây bức rút đồn Long Phước. 
Vùng giải phóng Bà Rịa-Vũng Tàu ngày càng được mở rộng, nối liền với các cơ sở cách mạng tạo thế liên hoàn. Các huyện phá rã, phá banh trên 80% ấp chiến lược, ta làm chủ từng đoạn lộ 2, lộ 15, lộ 23, lộ 44, lộ 52, tạo địa bàn đứng chân cho các đơn vị bộ đội, dân, chính, Đảng của tỉnh và quân khu. Vùng Núi Dinh được chọn làm khu huấn luyện, trường đào tạo cán bộ hoạt động nội thành của Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Các cơ sở của Thị ủy Bà Rịa đưa đón và cung cấp lương thực, thực phẩm cho lớp học. Ở vùng giải phóng, chính quyền được thành lập, chi bộ được củng cố, các hội, đoàn thể hoạt động mạnh, từng bước ổn định đời sống Nhân dân. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích phát triển, ngày đêm luyện tập, tuần tra canh gác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng.
Nguồn: https://mattran.baria-vungtau.gov.vn/





 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Kỳ 3: Những đòn thử lửa đầu tiên

Những lần tấn công ấp chiến lược Bình Giã của lực lượng vũ trang tỉnh để thử sức và thăm dò phản ứng của địch, Bộ Chỉ huy Miền đã đi đến quyết định chọn Bình Giã làm điểm quyết chiến.
Đánh thăm dò phản ứng địch
Cuối năm 1964, vùng giải phóng của tỉnh được mở rộng, tạo thế liên hoàn, nối liền vùng giải phóng Long Đất, căn cứ Minh Đạm và vùng giải phóng Đông và Tây lộ 2 đến vùng giải phóng Xuyên Mộc. Thực lực cách mạng của các huyện thị dần lớn mạnh. Các đơn vị hậu cần, quân dân y của tỉnh được củng cố, phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho các đơn vị vũ trang và nhân dân vùng giải phóng.
Trong thế suy yếu và bị động, địch tập trung lực lượng co cụm giữ các chi khu, tỉnh lỵ và các trục giao thông quan trọng. Tại khu vực lộ 2, địch tăng cường phòng thủ chi khu Đức Thạnh và ấp chiến lược Bình Giã.
Xã Bình Giã nằm trên hương lộ 327, giáp với chi khu Đức Thạnh, cách TX.Bà Rịa khoảng 18 km về hướng Bắc.
Bình Giã là khu gia binh của lực lượng thủy quân lục chiến và lính biệt động ngụy. Nếu Bình Giã bị diệt, Chi khu Đức Thạnh, Đường số 2 bị uy hiếp, Bà Rịa bị chia cắt khỏi Long Khánh và Đường số 1, khu vực phòng ngự có tầm chiến lược của địch sẽ mất hiệu lực.
Địch xây dựng Bình Giã thành ấp chiến lược kiểu mẫu với hệ thống phòng thủ kiên cố, có hào giao thông; ô, ụ chiến đấu; hàng rào kẽm gai, chông, mìn dày đặc bao quanh.
Bên ngoài cùng là hàng rào tự nhiên bằng tre gai kiên cố. Ngoài số tề xã, tề ấp, địch tổ chức ở đây một lực lượng quân sự gồm: 147 tên dân vệ được biên chế thành Liên trung đội, trang bị mạnh, có máy thông tin PRC10. Địch bố trí Đại đội 2 biệt động quân/Tiểu đoàn biệt động 38 và một Đại đội bảo an ninh quân số 131 tên thường trực dã ngoại để bảo vệ. Ngoài ra, chúng còn bố trí 108 thanh niên tự vệ thành các đội bảo vệ Chúa, được trang bị đầy đủ vũ khí. Mỹ-ngụy coi ấp chiến lược Bình Giã là “bất khả xâm phạm”.
Cuối tháng 10/1964, Bộ đội tỉnh nổ súng tiến công vào Bình Giã. Bộ đội bí mật tiếp cận cổng phía đồi Đức Mẹ ngay trong đêm. 2 Đại đội 440 và 445 chia làm 2 mũi, ém quân trong bãi bắp gần cổng chính làng 2. Khi địch mở cổng ấp vào lúc 6 giờ sáng, các mũi xung kích đồng loạt nổ súng và xông lên chiếm cổng, tràn vào ấp với ưu thế hoàn toàn bất ngờ, nhanh chóng làm chủ làng 2 và phát triển sang làng 3.
Khoảng 9 giờ sáng, ngụy quyền làng 2 cho bọn tay sai phản động thúc ép hàng trăm đồng bào biểu tình dùng gậy gộc và hung khí xông vào đánh bộ đội, đòi thả những tên ác ôn vừa bị bắt. Trước áp lực của quần chúng bị bọn phản động lợi dụng, đồng chí Sáu Chiến dùng đại liên nghếch nòng súng lên tầm quá đầu người bắn uy hiếp để giải tán đoàn biểu tình. Bộ đội ta tiếp tục tổ chức đánh vào làng 3 trong đêm, diệt một số tên địch, phát loa kêu gọi binh sĩ địch bỏ súng đầu hàng, tuyên truyền cương lĩnh của mặt trận dân tộc giải phóng rồi rút quân ra để củng cố lực lượng.
“Đánh điểm, diệt viện”
Nhằm nâng cao quy mô tác chiến và trình độ vận động chiến của bộ đội chủ lực, làm vận động chiến giữ vai trò quyết định, Quân ủy và Bộ chỉ huy miền quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1964-1965 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Thực tiễn của đợt đi chuẩn bị chiến trường của đoàn cán bộ tham mưu Miền cho thấy bộ đội ta chưa quen đánh công kiên, trong khi công sự địch rất kiên cố, lực lượng trinh sát Miền chưa qua được 10 lớp rào của chi khu Xuyên Mộc. Trận đánh thăm dò vào chi khu Đất Đỏ của 1 đơn vị bộ đội chủ lực Miền bị thương vong nặng.
Trong lúc đó, trận tiến công ấp chiến lược Bình Giã của bộ đội địa phương diễn ra khi đoàn cán bộ của Bộ Chỉ huy Miền về điều nghiên chiến trường Bà Rịa-Long Khánh. Theo sự chỉ đạo của Miền, đồng chí Nguyễn Việt Hoa (Mười Thà), Tỉnh đội trưởng Bà Rịa trực tiếp chỉ huy liên tiếp thêm 2 trận tiến công Bình Giã vào các thời điểm khác nhau để thăm dò phản ứng của địch. Lực lượng tham gia gồm 2 đại đội 440 và 445 bộ đội tỉnh, Đại đội 20 bộ đội huyện, du kích xã Ngãi Giao và đội công tác di cư do đồng chí Nguyễn Trọng Vĩ phụ trách.
Hai ngày sau, Đại đội 440 và Đại đội 445 bất ngờ đánh vào làng 1, tiêu diệt sinh lực địch rồi nhanh chóng rút ra khi địch chưa kịp hoàn hồn. Đại đội 20 bộ đội huyện, du kích xã Ngãi Giao và đội công tác di cư phối hợp tuyên truyền đường lối chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, kêu gọi Nhân dân không để địch lừa bịp, đưa con em đi lính làm bia đỡ đạn cho địch. 
Một tuần sau, đồng chí Mười Thà chỉ huy lực lượng một lần nữa tiến công ấp chiến lược Bình Giã. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt, từ sáng đến 3 giờ chiều ta mới chiếm được làng 1. Địch dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn biệt động quân xuống Bình Giã. Bộ đội ta đào hầm để tiếp tục trụ lại đánh địch. Cuộc chiến đấu không cân sức, giằng co kéo dài đến ngày hôm sau. Trước tình thế bất lợi, Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định rút lui để bảo tồn lực lượng.
Ba lần tiến công chưa giải phóng được Bình Giã, nhưng qua chiến đấu ta nhận ra chỗ mạnh, yếu cũng như phản ứng của địch. Nắm bắt tình hình này, đoàn cán bộ tham mưu Miền đề đạt ý kiến lên Bộ chỉ huy chiến dịch về việc chọn Bình Giã, Đức Thạnh làm điểm tấn công mở màn cho chiến dịch và thực hiện phương thức tác chiến mới: “đánh điểm, diệt viện”, nhằm tiêu diệt quân chủ lực ngụy, đánh bại chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận" ở quy mô cấp chiến dịch.
Nguồn: https://mattran.baria-vungtau.gov.vn/



 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Kỳ 4: Ấp chiến lược Bình Giã-Điểm khơi ngòi chiến dịch
 
Bình Giã có vị trí quan trọng về quân sự và chính trị, được  Mỹ-ngụy xây dựng thành “hậu cứ an toàn”. Đánh vào Bình Giã, buộc địch phải phản ứng nhanh bằng đường bộ, đường hàng không, ta có điều kiện “đánh điểm, diệt viện”.
Chiến thuật đánh vào "hậu cứ an toàn"
Chiến dịch Bình Giã được mở trên địa bàn rộng gần 500km2, thuộc các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa và Bình Thuận. Hướng chủ yếu nằm trên tỉnh Bà Rịa. Hai hướng thứ yếu và phối hợp là Nhơn Trạch-Long Thành và Hoài Đức, Tánh Linh cách Sài Gòn khoảng 70km về phía Đông. Trên hướng chủ yếu, phương án ban đầu lấy Xuyên Mộc làm mục tiêu chính, đánh Chi khu Đất Đỏ để nghi binh. Qua nghiên cứu, Bộ chỉ huy Miền thay đổi hướng, lấy ấp chiến lược Bình Giã thuộc Chi khu Đức Thạnh làm điểm khơi ngòi, mở màn chiến dịch.
Bình Giã được coi là "hậu cứ an toàn" của Mỹ và tay sai, nằm ngay trên địa bàn của 3 chi khu quân sự bảo vệ Vũng Tàu, căn cứ hải quân, không quân, căn cứ của cái gọi là "Bộ chỉ huy Việt-Mỹ" hỗn hợp. Trong tham luận tại Hội thảo 30 năm Chiến thắng Bình Giã, Trung tướng Đỗ Quang Hưng, quyền Tư lệnh Quân khu 7 nhận định: “Chọn địa bàn này ta có khả năng chuẩn bị tốt các mặt cho tác chiến tập trung lớn của chủ lực. Đây là nơi xung yếu trong hệ thống phòng thủ phía Đông Sài Gòn. Khi bị đánh, địch sẽ tập trung đối phó, ta có cơ hội diệt địch ngoài công sự, gây thối động lớn”.
Còn Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam phân tích trong tham luận “Bình Giã-chiến dịch đầu tiên-chiến dịch quyết định”: Tỉnh Bà Rịa nằm ven biển Đông và bờ Tây Thái Bình Dương, bờ biển bằng phẳng, có thành phố cảng Vũng Tàu là cửa ngõ vào Việt Nam từ Mỹ và các căn cứ Mỹ ở Nhật, Philippines... Hạm đội 7 hùng mạnh của Mỹ làm chủ Thái Bình Dương, nhưng cần một đầu cầu bàn đạp trên đất liền là các tỉnh Bà Rịa-Bình Tuy-Long Khánh-Biên Hòa. Mỹ cố chiếm và bình định các tỉnh này làm khu vực hậu phương an toàn để tập trung lực lượng đánh các tỉnh Bình Dương, Bình Long, Tây Ninh, Hậu Nghĩa... là những nơi ta có căn cứ lớn và lực lượng hoạt động tương đối mạnh.
Ở các tỉnh Bà Rịa-Bình Tu-Long Khánh, lực lượng vũ trang ta còn yếu, địch cho là đã bình định xong về cơ bản nên không bố trí nhiều quân chủ lực ngụy mà chủ yếu bố trí bảo an và dân vệ. Ta đánh vào đây là đánh vào hậu phương của địch, phát triển phong trào quần chúng và đẩy mạnh du kích chiến tranh, buộc địch phải phân tán lực lượng không dồn hết sức lực về phía trước để đánh ta. Ở đây địch lại yếu và sơ hở, khi bị đánh, địch phải điều quân chủ lực từ nơi khác tới, một vùng địa hình không thuận lợi cho chúng. Chủ lực của ta cũng từ xa tới có nhiều khó khăn, nhưng nếu khắc phục được trong thế chủ động sẽ gây một bất ngờ lúng túng cho địch, làm cho địch mạnh trở thành yếu, ta ít mà tập trung và chủ động, tạo được ưu thế trong từng trận đánh.
“Chọn hướng chiến trường đúng giúp nắm chắc phần thắng về mặt chiến thuật, chiến dịch và chiến lược”, Thượng tướng Trần Văn Trà nhìn nhận.
Đóng vai trò quan trọng cho chiến dịch là căn cứ Hắc Dịch, nằm phía Nam đường số 2, cách không xa Bình Giã và giữa 2 vùng căn cứ quan trọng là rừng Sác và chiến khu D. Từ năm 1963, Hắc Dịch trở thành căn cứ của các cơ quan Tỉnh ủy và Tỉnh đội. Từ tháng 10/1963, Bộ chỉ huy Miền cho lập ở Hắc Dịch tuyến vận tải vũ khí đường biển theo lộ trình Cần Giờ-rừng Sác-Hắc Dịch-chiến khu D. Hắc Dịch thành nơi trú đóng của nhiều cơ quan tỉnh và Đoàn K10, đoàn hậu cần tiền phương, đoàn quân nhu khu E, Bộ chỉ huy chiến dịch, căn cứ hậu cần với các kho dự trữ súng đạn, lương thực lớn và bệnh viện quân y cánh Tây chiến dịch. 
Kết hợp hậu cần chủ lực và hậu cần tại chỗ
Từ giữa năm 1961, Khu ủy miền Đông đã cử người ra Bắc xin chi viện vũ khí. Đêm 3/10/1963, tàu chở 20 tấn vũ khí, chất nổ từ hậu phương miền Bắc cập bến Lộc An, được Đoàn 1500 tiếp nhận an toàn. Nhờ số vũ khí này, quân và dân miền Đông đẩy mạnh hoạt động phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng. Đến ngày 22/12/1964, hơn 70 tấn vũ khí đạn dược từ miền Bắc tiếp tục cập bến Lộc An để chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch. Cùng với đó, tuyến vận chuyển vũ khí từ Bến Tre, Cà Mau lên rừng Sác về kho ở căn cứ Hắc Dịch cũng được tổ chức. Trước khi chiến dịch diễn ra, kho vũ khí ở căn cứ Hắc Dịch tiếp nhận hơn 800 tấn vũ khí để cung cấp cho bộ độ chủ lực và các địa phương.
Bộ chỉ huy Miền tổ chức ra Đoàn quân nhu khu E (Bà Rịa-Long Khánh) triển khai thu mua kết hợp với địa phương vận động Nhân dân tại chỗ ủng hộ và rút từ vùng địch. Trước chiến dịch, hậu cần Miền chuyển về Bà Rịa 2.000 giạ lúa từ Hậu Giang. Cục Hậu cần Miền còn tổ chức tư thương cơ sở của ta trong nội thành Sài Gòn Chợ Lớn, chở 50 tấn gạo và 10 tấn muối trên đường Sài Gòn đi Nha Trang đổ trên đường số 1 qua Xuân Lộc. 
Hậu cần khu B và khu A đảm bảo cho bộ đội hành quân và dừng lại huấn luyện cũng như sẵn sàng cung cấp cho bộ đội khi từ chiến dịch về. Quân khu miền Đông giao các rẫy mì cho bộ đội ăn khi qua căn cứ chiến khu Đ.
Tỉnh ủy Bà Rịa triển khai kế hoạch phục vụ chiến dịch cho cán bộ chủ chốt của tỉnh và các huyện với tinh thần hết sức khẩn trương và bảo đảm bí mật. Đồng bào trong tỉnh sử dụng nhiều phương tiện đưa lương thực và nhu yếu phẩm cho bộ đội. Lúa gạo từ các nơi được bí mật chuyển về các kho dựng tạm ven lộ 2. Máy xay lúa ở Long Phước hoạt động ngày đêm suốt cả tháng trời. Công nhân cao su sử dụng xe hơi, máy cày của sở vận chuyển lượng thực, khí tài cho bộ đội. Hàng ngàn thanh niên nam nữ các xã hăng hái xung phong đi dân công tải đạn, khiêng cáng thương binh. Đến cuối tháng 11/1964, Ban Quân nhu khu E phối hợp với địa phương chuẩn bị khoảng 417 tấn gạo bảo đảm đủ cho chiến dịch với tiêu chuẩn 1 lít gạo/người/ngày.
Tại các khu căn cứ Hắc Dịch, Châu Pha bà con đồng bào dân tộc ngày đêm khẩn trương đào hầm cất giấu vũ khí, chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho bộ đội ém quân. Đội vũ trang tuyên truyền di cư Bình Giã bám các ấp đồng bào dân tộc Châu Ro ở La Vân, Cà Mun, tổ chức đồng bào đưa hàng hóa lâm sản vào buôn bán trao đổi, để nắm tình hình địch.
Căn cứ khu I (xã Bình Châu) được hậu cần miền chọn làm nơi xây dựng bệnh viện K76A để phục vụ cho chiến dịch Bình Giã. Quân y miền đã điều 3 đội phẫu thuật tăng cường cho tỉnh Bà Rịa để tổ chức hai đội phẫu thuật dã chiến. Cơ quan của tỉnh dời về Đông lộ 2 (Sông Ray), nhường căn cứ Hắc Dịch cho các đơn vị về chuẩn bị chiến dịch. Bệnh xá của tỉnh được tăng cường thêm một đội phẫu thuật của quân y miền để tổ chức thành bệnh viện dã chiến mang phiên hiệu K76B, đóng ở phía Tây lộ 2.
Sự hiệp đồng chặt chẽ về chiến dịch và chiến lược từ miền Bắc tới miền Đông Nam Bộ (vũ khí), từ miền Tây lên miền Đông (lương thực và vũ khí), từ nội ô Sài Gòn đến các tỉnh miền Đông theo kế hoạch sẵn sàng cho thời khắc tiếng kèn xung trận mở màn chiến dịch Bình Giã.
Nguồn: https://mattran.baria-vungtau.gov.vn/


 
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM  
Kỳ cuối: Trận chiến ngoan cường, hiệu quả phi thường

Chiến thắng Bình Giã góp phần làm thất bại cơ bản chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam.
Chiến thắng của thế trận chiến tranh nhân dân
Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch giành thắng lợi lớn nhất của quân và dân ta trong những năm chống Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy, là trận đánh mà số lượng quân Mỹ - ngụy tham gia với mức kỷ lục. Số lượng máy bay, xe cơ giới địch bị tiêu diệt lớn. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn, trong đó có những đơn vị sừng sỏ thuộc lực lượng tổng trù bị chủ lực của địch như: Tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến, Tiểu đoàn 33, 35 biệt động quân. Đặc biệt, ta đã đánh bại chiến thuật "thiết xa vận" và "trực thăng vận" của địch.
Ta mở chiến dịch với 7.000 quân tham gia, trên một địa bàn không thuận lợi, trong điều kiện vũ khí, khí tài, lương thực hạn chế. Dù vậy, việc triển khai chiến dịch được thực hiện xuất sắc, nhờ kết hợp hậu cần chủ lực với hậu cần tại chỗ, dựa vào dân, qua 100 ngày đêm chiến đấu ta vẫn còn dư 100 tấn lương thực.
Phát huy thành quả của chiến dịch Bình Giã, trong bước phát triển, bộ đội Miền cùng quân, dân Bà Rịa phá tung hàng chục ấp chiến lược trên Tỉnh lộ 2, vùng Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch, ven biển Hàm Tân, giải phóng hoàn toàn quận Hoài Đức, mở rộng căn cứ Hắc Dịch nối liền với chiến khu D và khu căn cứ tỉnh Bình Thuận. Đồng thời, ta đã củng cố các bến bãi tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc chi viện bằng đường biển. 
Qua chiến dịch, trình độ tổ chức và tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực được rèn luyện. Lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng trưởng thành, tạo điều kiện cho ta phát triển thế trận chiến tranh nhân dân.
Từ chiến thắng Bình Giã, quân và dân ta trên khắp miền Nam tiến hành các đợt tác chiến với quy mô khác nhau, như: An Lão (30/11 - 08/12/1964), Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965)… góp phần làm phá sản hoàn toàn chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ.
Thay đổi cục diện chiến trường
Chiến thắng Bình Giã là chiến dịch tấn công đầu tiên của Quân Giải phóng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhưng là chiến dịch quyết định làm thất bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy, buộc đế quốc Mỹ phải vội vàng đưa quân Mỹ và chư hầu vào chiến trường miền Nam, chuyển sang Chiến tranh cục bộ, hòng cứu vãn tình thế và rơi vào cuộc phiêu lưu quân sự ngày càng cao hơn.
Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược to lớn, ảnh hưởng sâu rộng ở trong và ngoài nước, khẳng định tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Mô tả chiến dịch Bình Giã, Hãng thông tấn AP ngày 28/12/1964, viết: Quân Giải phóng từ các hào giao thông thình lình xuất hiện, đánh tan các đơn vị biệt kích của chính phủ. Tờ Tin nhanh Campuchia thời điểm đó đưa tin: "Trận Bình Giã một lần nữa biểu thị rõ ràng sức chiến đấu ngoan cường và tính hiệu quả phi thường của các lực lượng vũ trang giải phóng và cách mạng miền Nam Việt Nam. Chiến thắng Bình Giã còn là một Điện Biên Phủ thu nhỏ lại của quân giải phóng". Báo Nhân dân Miến Điện viết: "Dù Lầu Năm Góc không dám nhận là họ sẽ thất bại ở miền Nam Việt Nam, nhưng nhiều chuyên gia quân sự thế giới đã đoán đúng là chính phủ Mỹ sẽ không bao giờ chiến thắng ở miền Nam Việt Nam cả”.
Trong khi đó, báo Dân tộc của Pháp viết: "Trận Điện Biên Phủ thứ hai phải chăng đã bắt đầu từ Bình Giã". Còn xã luận của Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh nhận định: “Chiến thắng Bình Giã là một điềm báo trước tốt đẹp”, “Ý nghĩa của Chiến thắng Bình Giã đã vượt qua phạm vi của chiến dịch này và có ảnh hưởng sâu rộng”.
Phía Mỹ đánh giá chiến dịch Bình Giã: "Nỗi thất vọng của Washington đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại "trông thấy" trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã, phía Đông Nam Sài Gòn ngày 26/12, đến ngày 2/1... Bộ Quốc phòng Mỹ chua chát thú nhận: “Bình Giã là một thất bại trông thấy của quân Sài Gòn”. Riêng tướng Westmoreland - cha đẻ của chiến thuật "tìm diệt" thừa nhận sự kiện Bình Giã đánh dấu một bước ngoặt của chiến tranh.
Nói về ý nghĩa của chiến dịch Bình Giã, Đại tướng Hoàng Văn Thái đánh giá: “Đây là một chiến dịch tiến công mang tính tổng hợp, một chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực Miền, cũng là một trong những chiến dịch đầu tiên trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Một chiến dịch quy mô nhỏ nhưng có ý nghĩa chiến lược, mở đầu thời kỳ mới của chiến tranh cách mạng ở miền Nam, kết hợp tiến công với nổi dậy, chiến tranh du kích với chiến tranh chính trị, đánh bại chiến lược chiến tranh của Mỹ-ngụy".
Tổng Bí thư Lê Duẩn nhìn nhận: “Trong quá trình chiến tranh giải phóng ở miền Nam đã diễn ra những bước nhảy vọt. Với trận Ấp Bắc năm 1963, địch thấy khó thắng ta, sau chiến dịch Bình Giã địch thấy thua ta”.
Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chiến thắng Bình Giã đánh dấu sự thất bại về cơ bản của chiến lược Chiến tranh đặc biệt".
Chiến thắng Bình Giã là một tia chớp làm sáng tỏ tình hình, góp phần làm thất bại cơ bản và đặt dấu chấm hết cho chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam nói chung và tỉnh Bà Rịa nói riêng.
Nguồn: https://mattran.baria-vungtau.gov.vn/

 

Nguồn tin: Phòng NV,CN&TT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

 Văn Bản

16/2023/TT-BVHTTDl

Thông tư ban hành quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, định mức kinh tế kỹ thuật và hướng dẫn triển khai thực hiện

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 615 | lượt tải:114

16/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư 16/2023/TT-BVHTTDL

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 398 | lượt tải:101

25/2023/NQ-HĐND

Nghị quyết số 25/2023/NQ-HĐND Bổ sung điểm c khoản 2 Điều 9 của quy định về các loại phí

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 650 | lượt tải:121

07/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư 07/2023/TT-BVHTTDL

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 367 | lượt tải:93

1346/QĐ-BVHTTDL

Bộ VHTTDL Ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình “Đẩy mạnh các hoạt động phục vụ học tập suốt đời trong thư viện, bảo tàng, trung tâm văn hóa đến năm 2030”

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 743 | lượt tải:316

830QĐ-BVHTTDL

Quyết định số 830/QĐ-BVHTTDL về việc ban hành Chương trình bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành Thư viện

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 506 | lượt tải:329

03/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư quy định tiêu chuẩn, điều kiện thi hoặc xét thăng hạng; hình thức, nội dung và xác định người trúng tuyển trong kỳ xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành thư viện, di sản văn hóa, văn hóa cơ sở, tuyên truyền viên văn hóa, ngh

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 477 | lượt tải:0

3815/QĐ-BVHTTDL

Quyết định Ban hành Quy tắc ứng xử nghề nghiệp của người làm công tác thư viện

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 39 | lượt tải:0

05/2022/TT-BVHTTDL

Thông tư số 05/2022/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Hướng dẫn hoạt động thư viện lưu động và luân chuyển tài nguyên thông tin

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 36 | lượt tải:0

2114/QĐ-BVHTTDL

Ban hành Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và định mức kinh tế-kỹ thuật trong hoạt động hỗ trợ, tư vấn về chuyên môn, nghiệp vụ thư viện và dịch vụ hỗ trợ học tập, nghiên cứu

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 404 | lượt tải:966

206/QĐ-TTg

Quyết định số 206/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030"

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 38 | lượt tải:0

93/2020/NĐ-CP

Nghị định 93/2020 - Quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 1310 | lượt tải:492

46/2019/QH14

Luật số 46/2019/QH14 của Quốc hội: Luật Thư viện

Thời gian đăng: 15/02/2025

lượt xem: 37 | lượt tải:0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây