THƯ MỤC CHUYÊN ĐỀ: KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 - 3/2/2025)

Thứ hai - 03/02/2025 14:16 54 0
THƯ MỤC CHUYÊN ĐỀ: KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 - 3/2/2025)

THƯ VIỆN TỈNH LÀO CAI

PHÒNG NGHIỆP VỤ CÔNG NGHỆ VÀ TRUYỀN THÔNG

***

 
Căn cứ Văn bản số 179-HD/BTGTW, ngày 18/12/2024 của Ban Tuyên giáo Trung ương về Hướng dẫn Kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2025; Văn bản số 186-HD/BTGTU, ngày 31/12/2024 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai về về Hướng dẫn Kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2025;
Phòng Nghiệp vụ Công nghệ và Truyền thông- Thư viện tỉnh Lào Cai xây dựng Thư mục chuyên đề Kỷ niệm 95 năm Ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/2/1930 - 03/2/2025), nhằm tuyên truyền sâu rộng về truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng của dân tộc; giáo dục tư tưởng chính trị; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam…
 
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 95 NĂM
NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/2/1930 - 03/2/2025)

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên, do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cùng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,... Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 6/01 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 95 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
 Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Đảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên Nhân dân ta mấy mươi thế kỷ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của Nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 -1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
Sau giải phóng miền Nam, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế - xã hội vừa chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cùng với quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
3.2. Từ năm 1986 đến nay
Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; với ý chí độc lập, tự chủ, tự cường, khát vọng xây dựng và phát triển đất nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, nước ta đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, lợi ích quốc gia dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế nước ta đã tăng 96 lần so với năm 1986, lọt Top 40 nền kinh tế hàng đầu, quy mô thương mại Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực; thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có toàn bộ các thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nền kinh tế nhóm G7. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội XIII (2021) Đảng ta có khoảng hơn 5 triệu đảng viên và hơn 53.800 tổ chức cơ sở đảng.
Những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo, là kết quả của một quá trình nỗ lực, phấn đấu liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của Đảng, phù hợp với thời đại và thực tiễn Việt Nam, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 95 năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, XÂY DỰNG NƯỚC TA NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ ANH HÙNG
1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; Nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày đầu, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của Nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được Nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Trong 95 năm qua, Đảng ta nỗ lực không ngừng, bám sát tình hình thực tiễn trong nước và thế giới để ban hành các quyết sách, chiến lược đúng đắn, sáng tạo đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để có những thắng lợi vĩ đại, vinh quang, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển vững mạnh, đời sống Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đảng ta đã không ngừng tự đổi mới, dành nhiều thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt trong các nhiệm kỳ của Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thực hiện toàn diện, đồng bộ, sâu sắc 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng, đáp ứng yêu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, như: Công tác tư tưởng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội; Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đạt kết quả tốt. Tăng cường mạnh mẽ, hiệu quả với quyết tâm chính trị rất cao công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng, tăng cường tính chủ động “đi trước mở đường”, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Cụ thể đã ban hành các nghị quyết, quy định: Kết luận số 21 - KL/TW ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37 - QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 144 -QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Đảng đã thi hành kỷ luật hơn 140 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có cả đương chức và đã nghỉ hưu (có 31 Ủy viên Trung ương Đảng đang đương chức, nghỉ hưu; 25 sĩ quan cấp tướng; 55 cán bộ, đảng viên bị xử lý hình sự,...) và xử lý nhiều vụ án, vụ việc xảy ra từ nhiều năm trước, khởi tố nguyên Bí thư tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch, Phó chủ tịch cấp tỉnh,... Những kết quả đó, khẳng định bản lĩnh chính trị, sự vững vàng, kiên định, nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; làm cho Đảng ta đoàn kết hơn, vững mạnh hơn, trong sạch hơn, củng cố niềm tin, tin tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng hiện nay còn hạn chế, khuyết điểm: một số cấp ủy, tổ chức chưa quan tâm, coi trọng đúng mức về nhiệm vụ chính trị; công tác dự báo, nắm tình hình, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu; phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có lúc, có nơi còn bị động; việc đổi mới, xếp sắp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, phân cấp, phân quyền chuyển biến chưa mạnh mẽ. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị và cải cách hành chính trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn yếu; một số cấp ủy cơ sở, chi bộ chưa thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ có mặt còn hạn chế, còn nhiều cán bộ, đảng viên đùn đẩy, sợ trách nhiệm; công tác kiểm tra, giám sát ở một số nơi chưa hiệu quả, cơ chế phối hợp giám sát, phản biện xã hội thiếu đồng bộ; cơ chế phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn có mặt hạn chế.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng ta tiếp tục tăng cường hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, vững mạnh toàn diện; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, thành tựu đổi mới của Nhân dân ta, dân tộc ta. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả, tạo sự chuyển biến căn bản trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng ở cơ sở và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực và uy tín. Tăng cường kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm và có tính đột phá; kiểm soát quyền lực chặt chẽ; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “không ngừng, không nghỉ”, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng; coi trọng và tăng cường đoàn kết trong Đảng, lấy đoàn kết của Đảng làm cơ sở, nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; phát huy truyền thống, sức mạnh đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện, phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”.
Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, thống nhất, phát huy tinh thần cách mạng, truyền thống quý báu của Đảng, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng, hướng tới Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG



 
95 NĂM THÀNH LẬP VÀ NHỮNG DẤU ẤN NỔI BẬT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Năm 2025, Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 95 tuổi. Với 95 mùa Xuân lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã tạo nên những dấu ấn nổi bật trong tiến trình lịch sử phát triển của đất nước.
Dấu ấn nổi bật đầu tiên trong lịch sử 95 năm qua, đó chính là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. 
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm và thiết lập chế độ cai trị, bóc lột. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của cha ông ta cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đều thất bại. Trước tình trạng đó, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) khi ấy với cái tên Nguyễn Tất Thành đã lên đường ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, năm 1920, Người đã tìm thấy con đường cứu nước khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác-Lênin. 
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã nhận ra rằng cách mạng muốn thành công: Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Từ đó, Người đã truyền bá lý luận cách mạng về trong nước và bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của một đảng cách mạng ở Việt Nam. 
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3/2/1930 với Cương lĩnh cách mạng đúng đắn là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. 
Về sau, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (9/1960) quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đầu năm 1930 với Cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cách mạng. Kể từ đó, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, lớn mạnh và giành được nhiều thắng lợi vĩ đại. Như vậy, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là sự kiện lớn đặc biệt đầu tiên trong hành trình 95 năm tuổi của Đảng. 
Dấu ấn thứ hai trong lịch sử 95 của Đảng, đó chính là sự kiện Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đưa đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ sau khi được thành lập đầu năm 1930, với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khi Đảng vừa tròn 15 tuổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. 
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng nghìn năm, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã từ thân phận nô lệ bước lên địa vị người chủ của đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội. 
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi này đã chứng minh rằng: Một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có thể giành thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyền. Như vậy, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có ý nghĩa và tầm vóc quốc tế. Thắng lợi đó có được là do đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, và đây là sự kiện quan trọng thứ hai trong lịch sử 95 tuổi của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dấu ấn thứ ba đó chính là Đảng đã lãnh đạo quốc gia dân tộc làm nên thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, song chỉ sau đó ít lâu, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược nước ta thêm một lần nữa. Với vai trò là một đảng lãnh đạo và cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, mà cốt lõi là đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau 9 năm. 
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non. Gan không núng. Chí không mòn!” đã đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Tiếng sấm Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đã buộc thực dân Pháp phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21/7/1954, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của họ ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, thừa nhận quyền độc lập, tự do, thống nhất, có chủ quyền của Việt Nam, Lào và Campuchia, rút quân về nước. Đây là dấu ấn thứ ba trên hành trình 95 tuổi của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dấu ấn thứ tư, đó là quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo ra điều kiện để thống nhất nước nhà và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội (1954-1975). Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc 21 năm nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai. Chiến thắng này cũng đã kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm chống đế quốc xâm lược, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc.
Thắng lợi này đã kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho quốc gia dân tộc: Kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chiến thắng này đã làm tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần và nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc trên trường quốc tế, nâng cao khí phách, niềm tự hào dân tộc, làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ cho phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Dấu ấn thứ năm là Đảng đã lãnh đạo quốc gia dân tộc thực hiện thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, chống lại quân xâm lược Khơ-me Đỏ ở vùng biên giới Tây Nam (1978-1989) và chống lại quân xâm lược ở vùng biên giới phía Bắc (1979-1989). Đặc biệt là thắng lợi trong cuộc chiến chống lại lực lượng Khơ-me Đỏ còn có ý nghĩa quốc tế lớn lao là giúp cho nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ cai trị diệt chủng do Pol Pot (Pôn Pốt) lãnh đạo. 
Dấu ấn thứ sáu là, Đảng đã lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa thế bị bao vây cấm vận và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Những năm 1970-1980 của thế kỷ trước, do chiến tranh kéo dài và những sai lầm, hạn chế của cơ chế cũ kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu và bao cấp, đất nước đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Cùng với đó là những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ quốc tế đã làm cho đất nước rơi vào tình trạng bị bao vây, cấm vận. Để khắc phục những hậu quả đó, với quan điểm: Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 năm 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phá thế bị bao vây, cấm vận từng bước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của công cuộc đổi mới đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quốc gia dân tộc, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Dấu ấn thứ bảy của Đảng đó là, Đảng đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng, quyết tâm phòng chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy để giữ gìn uy tín, đảm bảo và nâng cao năng lực, vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, với quốc gia dân tộc. Xứng đáng là một đảng lãnh đạo và cầm quyền, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp và quốc gia dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng đã xử lý kiên quyết, triệt để các vụ án tham nhũng, lãng phí trong hơn một thập niên vừa qua, kiên quyết loại ra khỏi Đảng những phần từ thoái hóa, biến chất. Điều này góp phần đảm bảo, củng cố, tăng cường, nâng cao uy tín, năng lực, vị thế, vai trò của Đảng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Nâng tầm vị thế của Đảng trên trường quốc tế, tạo cơ hội mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho đất nước.
Những dấu ấn quan trọng trong chặng đường 95 năm ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta, dân tộc ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, vĩ đại, đặc biệt là thắng lợi của công cuộc đổi mới. Với thắng lợi của công cuộc đổi mới, vị thế của quốc gia dân tộc trên trường quốc tế được khẳng định và nâng tầm. Với tất cả sự khiêm tôn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. 
Và năm 2025 này, khi vừa tròn 95 tuổi, Đảng đã và đang lãnh đạo quốc gia dân tộc bước vào một dấu ấn mới nữa, dấu ấn thứ tám, đó là chính là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây được coi là kỷ nguyên mới, mà Đại hội 14 tới đây sẽ là Đại hội đầu tiên của Đảng khởi đầu cho kỷ nguyên mới. Với tất cả những thắng lợi mà Đảng đã lãnh đạo quốc gia dân tộc giành được trong 95 năm, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, chúng ta sẽ tiếp tục giành được thắng lợi lớn hơn trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.


 
KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 - 3/2/2025):
ĐẢNG GẦN GŨI TRONG LÒNG NHÂN DÂN
Một hiện tượng vô cùng độc đáo, Nhân dân lao động cả nước gọi đội tiền phong của giai cấp công nhân là "Đảng ta", "Đảng mình"; tự nguyện đứng về phía Đảng trong mọi cuộc chiến đấu, dù đó là cuộc chiến đấu lâu dài, khó khăn, gian khổ và ác liệt nhất. Nhân dân đã cùng Đảng chia sẻ, gánh vác nhiệm vụ trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi cần phải xác định rõ thái độ, tình cảm yêu ghét của mình, Nhân dân ta luôn dứt khoát. Nhân dân gọi lãnh tụ, cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam là "Bác Hồ", là "anh Ba", "anh Sáu", "anh Mười, là "thằng Tư, "thằng Út” và gọi chung là "người đằng mình", nhưng không phải tất cả những ai mang danh cán bộ, đảng viên mà chỉ những người tận tụy hy sinh, phấn đấu vì lợi ích của dân, dũng cảm đấu tranh với địch mới được Nhân dân dành cho vinh hạnh đó.
Đáp lại sự tin yêu ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, mỗi cán bộ, đảng viên của đảng phải ra sức phấn đấu, "phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân". Trong khi đặt lên hàng đầu vai trò "người lãnh đạo", Người rất nhấn mạnh phẩm chất "người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân". Trước Hồ Chí Minh, chưa có ai đặt cho Đảng Cộng sản những yêu cầu nghiêm túc và nghiêm khắc trước Nhân dân như vậy. Sự vĩ đại của Đảng thể hiện ở chức năng "người lãnh đạo" và càng thể hiện rõ hơn khi tự nguyện "là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân". Sự gắn bó keo sơn ấy, tự nó nói lên biết bao điều cao cả và sâu sắc mà bằng ngôn từ không dễ gì diễn tả hết. Biết mấy thiêng liêng khi tất cả chúng ta cùng nhau nói "Đảng ta", "Nhân dân ta". Điều độc đáo ấy nói lên nguồn gốc sức mạnh vô địch của Đảng ta và của Nhân dân ta.
Nói về Đảng ta, không có lời tổng kết nào giản dị, chân thật và sâu sắc bằng lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”. Đảng vĩ đại không phải vì Đảng ở ngoài, hay ở trên mà là ở trong Nhân dân. Cán bộ, đảng viên của Đảng không phải ai khác, mà là những người dũng cảm, xuất sắc trong Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đảng ta là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động". Những lời trên đây của Người tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, đến nay vẫn làm rung động lòng người, khắc sâu thêm tình yêu và trách nhiệm của mỗi người chúng ta đối với Đảng thân yêu.
Trên suốt chặng đường phấn đấu, hy sinh đầy gian truân, thử thách, không có chiến công nào không bắt nguồn từ sức mạnh đoàn kết, gắn bó, cùng đấu tranh, cùng đi tới thắng lợi; không có cuộc chiến đấu nào mà mồ hôi và máu đào của đảng viên và của Nhân dân không cùng đổ trên đất này.
Hãy trở lại với một vài sự kiện lịch sử tiêu biểu không thể nào quên, bắt đầu từ sự kiện Đảng ta ra đời.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đó là bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Từ đêm dài nô lệ và tăm tối đã vươn tới ánh sáng của chân lý, của cách mạng. Với bước ngoặt đó, cách mạng Việt Nam đã tiến xa hơn, vươn lên cao hơn quan niệm "dân là của nước, nước là của dân" của nhà yêu nước Phan Bội Châu, đánh dấu giai đoạn từ nay dân ta có Đảng.
Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo ba cao trào cách mạng hết sức rộng lớn và sôi sục diễn ra trong cả nước. Khởi đầu là cao trào 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô viết - Nghệ Tĩnh; tiếp đến là cao trào 1936 - 1939 với các phong trào đòi dân sinh, dân chủ, biểu thị sự trưởng thành mau chóng của cách mạng Việt Nam; và cao trào 1939 - 1945, tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành được chính quyền trong phạm vi cả nước, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là chiến công "chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc khác bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".
Tiếp đến là cuộc kháng chiến thần thánh 3.000 ngày, Đảng đã lãnh đạo toàn dân ta, trẻ cũng như già "ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc", tất cả cùng nhất tề đứng lên với tinh thần: "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Bằng ý chí ấy, Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh trận kết thúc Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của Nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Trên chặng đường đi tới, hơn 20 năm tiếp theo, Đảng lãnh đạo Nhân dân đồng thời làm hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, giải phóng đất nước. Lại thêm một thử thách lớn lao đặt ra với Đảng, với Nhân dân ta. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, chúng ta đã làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, thực hiện xuất sắc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", Bắc Nam sum họp, non sông thu về một mối, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, sau chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít - như đánh giá của đồng chí Phiđen Caxtơrô. Trong khoảng thời gian 30 năm mà Đảng ta, Nhân dân ta phải trải qua hai cuộc đọ sức lớn và đã đánh thắng hai thế lực đế quốc hung tàn, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn mình gấp bội. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt ấy, chẳng những có người thành thật lo chúng ta không thể chiến thắng được, mà chúng ta còn bị kẻ thù hăm dọa đánh cho Việt Nam "trở lại thời kỳ đồ đá"
Thế nhưng, kết cục ai thắng, ai thua đã rõ!
Chúng ta thắng không phải vì chúng ta đông người hơn, kinh tế ta mạnh hơn các thế lực thực dân, đế quốc. Càng không phải vì chúng ta có nhiều súng đạn hơn kẻ thù. Đã và còn có nhiều người đi tìm nguyên nhân vì sao thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã thua, Việt Nam đã thắng. Chúng ta có thể nói công khai về bí quyết tạo nên sức mạnh vô địch của mình: Đó là vì Nhân dân ta quyết tâm đi theo Đảng, làm theo Đảng, quyết chiến đấu để thực hiện tư tưởng: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó là vì "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau"; là ý chí "nhà tan cửa nát cũng ừ. Đánh tan giặc Mỹ cực chừ, sướng sau". Những chiến công mà Đảng và Nhân dân ta giành được trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, giải phóng đất nước mãi mãi là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam.
Từ sau khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta đã vấp phải những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế. Đứng trước những thách thức mới vô cùng gay gắt: Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm diễn ra giữa lúc bối cảnh quốc tế vô cùng khó khăn, phức tạp, liệu Đảng có đủ khả năng chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi tới bến bình an? Trước sự đổ vỡ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, mối lo đó không phải là vô cớ.
Đã có không ít kẻ lợi dụng tình hình khó khăn, tìm cách chia rẽ, đả kích sự lãnh đạo của Đảng. Dường như đã trở thành quy luật, cứ vào lúc khó khăn lại là lúc tinh hoa của dân tộc, trí tuệ và ý chí của Đảng ta và của Nhân dân ta lại có dịp phát huy và lần này nó thể hiện trong đường lối, trong quyết tâm đổi mới.
Trong một thời gian tương đối ngắn, thực hiện đường lối đổi mới, Nhân dân ta đã giành được những thành tựu rất đáng tự hào. Những thành tựu lớn lao giành được trong những năm tháng tiến hành công cuộc đổi mới chứng tỏ ý Đảng, lòng dân một lần nữa lại kết thành một khối. Với sự đoàn kết, gắn bó keo sơn ấy, chúng ta nhất định vượt qua mọi trở ngại, tiếp tục vững bước tiến lên trên con đường thắng lợi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Càng tự hào với thành tích, mỗi người chúng ta càng nâng cao trách nhiệm và nghiêm khắc hơn trong sự tự phê bình về những khuyết điểm, yếu kém của mình về những nhiệm vụ chưa làm tròn trước Nhân dân. "Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa tròn nhiệm vụ".
Trong quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng gian khổ và vinh quang của Đảng, có biết bao điều nói lên sự vĩ đại, sự gắn bó giữa Đảng và Nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng ta thật là vĩ đại", Nhân dân ta thật là anh hùng; "Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà, mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của Nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi trong lòng của mỗi đồng bào ta. Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của Nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác".
Nguồn: https://kinhtedothi.vn/



 
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
 Trải qua 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự khẳng định vai trò là lực lượng tiên phong.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nêu lên tư tưởng về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Qua nhiều bài phát biểu, nói chuyện và một số bài viết được đăng tải trên các tạp chí, báo, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Đất nước ta đã hội đủ các điều kiện để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Và thời điểm để bắt đầu kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là từ Đại hội XIV của Đảng.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”(1), nhằm thực hiện mục tiêu thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng: Đến giữa thế kỉ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Qua gần 40 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã cho thấy đường lối đổi mới là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của tiến trình lịch sử và xu thế thời đại. Ngày nay, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc phát huy vai trò của Đảng có ý nghĩa cấp thiết trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Loài người đang bước vào giữa thập niên thứ ba của thế kỉ XXI, với nhiều kì vọng để xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển. Các xu thế mới nhờ thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra nhiều bước nhảy vọt về chất chưa từng có trong nền sản xuất vật chất: Xu thế toàn cầu hóa tạo ra thời cơ hội nhập, phát triển cho mọi quốc gia dân tộc; xu thế hình thành một thế giới đa cực, đa trung tâm đang dần định hình; sự phát triển của các thể chế đa phương, tạo cơ hội mới cho các quốc gia tăng cường hợp tác, phát triển.
Tuy nhiên, nhân loại đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức mới, nhất là tình hình xung đột ở nhiều nơi trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; tình trạng tội phạm, khủng bố đa quốc gia, xuyên quốc gia, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… đe dọa sự phát triển bền vững của thế giới. Trong khi đó, cạnh tranh thương mại, công nghệ ngày càng gay gắt giữa Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc, đẩy kinh tế thế giới vào vòng xoáy của chủ nghĩa bảo hộ.
Tác động từ bối cảnh mới của thời đại bao gồm cả thuận lợi và khó khăn, mà nếu Việt Nam không tận dụng tốt thời cơ, vượt qua các thách thức, thì sẽ không đạt được mục tiêu trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Đặc biệt, khi nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi rất cao việc phát huy vai trò Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Để Đảng ta phát huy tốt vai trò, nhằm hoàn thành sứ mệnh của mình, theo chúng tôi cần thực hiện tốt các nội dung giải pháp sau:
Một là, phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng.
Những truyền thống vẻ vang của Đảng được tạo lập, bồi đắp trong 95 năm xây dựng, trưởng thành cần được toàn Đảng và mọi cán bộ, Đảng viên thấm nhuần, đồng thời nêu cao tinh thần, ý chí quyết tâm, lòng tự hào và trách nhiệm vinh quang, để tiếp tục phát huy cao độ trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng thực sự là bộ tham mưu, đội tiên phong, đại biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tri của dân tộc, thời đại.
Do đó, Đảng phải tuyệt đối trung thành với giai cấp, Nhân dân và dân tộc; kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn giữ vững đường lối lãnh đạo độc lập, tự chủ; gắn bó máu thịt với nhân dân, lấy dân làm gốc; giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình; tăng cường đoàn kết quốc tế vì mục tiêu chung của thời đại.
Hai là, tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng phải thật sự trong sạch vững mạnh, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ dẫn dắt dân tộc ta bước vào giai đoạn phát triển thịnh vượng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Theo đó, Đảng phải tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Vì vậy, Đảng cần kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh mới; không ngừng nâng cao trình độ, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng cũng như của cán bộ, Đảng viên; giữ vững bản chất cách mạng và kiên định con đường đổi mới đất nước; tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng về chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; nghiên cứu, vận dụng và phát triển lý luận về đường lối đổi mới đất nước trong kỷ nguyên mới và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị trong toàn Đảng và hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng theo Nghị quyết số 35-NQ/TW năm 2018 của Bộ Chính trị; tập trung đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, bảo đảm tổ chức bộ máy của Đảng “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” theo ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng; mọi cán bộ, Đảng viên nêu cao gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024, của Bộ Chính trị, Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới, và đề cao trách nhiệm nêu gương theo Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; đổi mới công tác cán bộ bảo đảm tốt về công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách đối với cán bộ, bảo đảm cho cán bộ yên tâm cống hiến, nhất là giải quyết hợp lý cán bộ dôi dư sau tinh giản tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
Ba là, đổi mới, nâng cao hiệu quả phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Trong bối cảnh mới, Đảng cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác xây dựng, ban hành cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, bảo đảm trong toàn Đảng có sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai thực hiện; cụ thể hóa đường lối, nghị quyết lãnh đạo của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm thống nhất ý Đảng, lòng dân; lãnh đạo chặt chẽ việc kiểm soát quyền lực trong Đảng, hệ thống chính trị và sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của công tác cán bộ, công tác kiểm tra, công tác chính sách, công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố và xét xử, bảo đảm tính nghiêm minh về hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn vận hành của Đảng và hệ thống chính trị.
Bốn là, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Toàn Đảng phải quán triệt và nâng cao hiệu quả mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Đổi mới công tác dân vận trên quan điểm “dựa vào dân”, “lấy dân làm gốc” để xây dựng Đảng.
Đồng thời, toàn Đảng và hệ thống chính trị thực hiện hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, bảo đảm phát huy dân chủ và quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh đó, Đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và kiên quyết, kiên trì thực hiện.
Tăng cường phối hợp của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm đồng bộ, thống nhất, kết hợp vừa tích cực nâng cao hiệu quả phòng ngừa, răn đe và xử lý nghiêm minh theo đúng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, tạo hiệu ứng lan tỏa trong toàn xã hội, qua đó củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.


 
95 NĂM CÓ ĐẢNG DẪN ĐƯỜNG: PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HÀI HÒA, NGANG TẦM VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
95 năm lãnh đạo cách mạng, một trong những dấu ấn nổi bật là Đảng ta luôn chú trọng phát triển văn hóa hài hòa, ngang tầm với phát triển kinh tế.
Con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử
10 năm sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975 - 1985), trước tình trạng nền kinh tế lạc hậu và chậm phát triển, Đảng ta đã thể hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng sự phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Đó là nhận thức về đổi mới tư duy kinh tế, là sự từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách sáng suốt. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện xuyên suốt qua các kỳ đại hội của Đảng.
Tư duy về kinh tế của Đảng được đổi mới bắt đầu từ khi chấp nhận phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước ở Đại hội VI và qua các kỳ đại hội Đảng tiếp theo được liên tục đổi mới. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4-2001). Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy của Đảng và thực tiễn vận hành ở Việt Nam, được đúc kết trên cơ sở đánh giá và rút ra các bài học qua Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[1].
Đồng chí U-ê-đa Côi-chi-rô, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản, trong bài phát biểu chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Đường lối đổi mới, trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử,… “mà”… chưa một ai đi qua”[2].
Bắt đầu từ đây, đổi mới tư duy về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được đẩy mạnh hơn, ngày càng toàn diện hơn. Đại hội XI (tháng 4-2011) của Đảng làm rõ nội hàm, mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[3].
Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng làm rõ hơn khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cả nội hàm, mục tiêu và cách thức thực hiện: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[4].
Tiếp theo đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017 Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chỉ rõ “Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững” [5] và Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó khẳng định kinh tế tư nhân là động lực phát triển nền kinh tế.
Những năm trước đổi mới (trước 1986), tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hầu như không đáng kể, có năm kinh tế tăng trưởng âm. Những năm đầu đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế có sự tăng khá, lúc đầu khoảng 2%, sau đó lên 4,5% và đạt 6% vào năm 1991. Đặc biệt, vào năm 1995, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lên đến 9,5% và năm 1996 ở mức 9,34%. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ là 4,77%, đến 2009 là 5,32%; 10 năm sau, vào năm 2019 là 7,02%.
Tính đến hết năm 2024, Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 7%; quy mô kinh tế đạt khoảng 470 tỷ USD; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực; tỷ trọng khu vực nông nghiệp còn khoảng 11%. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; tăng năng suất lao động ước đạt 5,7%, vượt mục tiêu đề ra; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176 quốc gia, vùng lãnh thổ [6].
Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá cao về kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh thế giới biến động mạnh, nhiều khó khăn. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ghi nhận kỷ lục, cùng với kỷ lục xuất khẩu nông sản trên 62 tỷ USD; thặng dư thương mại ước đạt khoảng 24 tỷ USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ nền kinh tế phục hồi tích cực và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tổng thu ngân sách nhà nước vượt hơn 19% dự toán (khoảng 320.000 tỷ đồng), góp phần bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia và bội chi ngân sách nhà nước thấp hơn giới hạn quy định [7].
Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn của các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư quốc tế; thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt khoảng 40 tỷ USD, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng 25 tỷ USD; là một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, trở thành một mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; đặc biệt đã xác lập được vị thế quan trọng trong chuỗi công nghiệp bán dẫn toàn cầu, thu hút được nhiều tập đoàn công nghệ lớn. Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 1 bậc so với năm 2023. Đây là những thành quả và minh chứng cho sự đúng đắn đổi mới tư duy kinh tế và vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới nền kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Cùng với tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy lý luận và đường lối văn hóa, với việc xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã chỉ rõ đặc điểm của nền văn hóa mà đất nước ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc [8]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng.
Tiếp đó, nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới” [9].
Nhìn chung, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đảng ta rất quan tâm.
Việc lãnh đạo và thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển quan trọng, đã gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng, phát triển bền vững đất nước, gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, về tính chủ động, sáng tạo và khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường.
Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và tôn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện, việc xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng hơn. Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa được tăng cường. Giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa tiếp tục đạt thành tựu mới.
Các sự kiện văn hóa, nghệ thuật cấp quốc gia, cấp vùng tiếp tục được tổ chức gắn kết chặt chẽ với các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa cơ sở. Đặc biệt, công nghiệp văn hóa từ sau Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất do Thủ tướng Chính phủ chủ trì vào tháng 12-2023 đã có những dấu ấn đột phá với các chương trình có tầm vóc, sức thu hút và hiệu ứng xã hội lớn. Trong lĩnh vực điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn, đã có nhiều sản phẩm công nghiệp văn hóa đặc sắc.
Với những thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế và văn hóa, thời gian tới, khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bài học về phát triển văn hóa hài hòa, ngang tầm với phát triển kinh tế cần tiếp tục được vận dụng, phát huy, để Việt Nam không chỉ là quốc gia giàu mạnh về kinh tế, mà còn có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc!
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.86.
[2] Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.53.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.204 -205.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016. tr.102.
[5] Nghị quyết số 11-NQ/TW, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 3-6-2017, lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
[6] Theo xếp hạng Quỹ di sản (Heritage Foundation).
[7] Trong đó, dư nợ công khoảng 36-37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP.
[8] Xem thêm Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
[9] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5-2021, tr.9.
Nguồn: Báo Lào Cai


 

Nguồn tin: Phòng NV,CN&TT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

 Văn Bản

16/2023/TT-BVHTTDl

Thông tư ban hành quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, định mức kinh tế kỹ thuật và hướng dẫn triển khai thực hiện

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 615 | lượt tải:114

16/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư 16/2023/TT-BVHTTDL

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 400 | lượt tải:101

25/2023/NQ-HĐND

Nghị quyết số 25/2023/NQ-HĐND Bổ sung điểm c khoản 2 Điều 9 của quy định về các loại phí

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 651 | lượt tải:121

07/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư 07/2023/TT-BVHTTDL

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 368 | lượt tải:93

1346/QĐ-BVHTTDL

Bộ VHTTDL Ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình “Đẩy mạnh các hoạt động phục vụ học tập suốt đời trong thư viện, bảo tàng, trung tâm văn hóa đến năm 2030”

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 744 | lượt tải:316

830QĐ-BVHTTDL

Quyết định số 830/QĐ-BVHTTDL về việc ban hành Chương trình bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành Thư viện

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 507 | lượt tải:329

03/2023/TT-BVHTTDL

Thông tư quy định tiêu chuẩn, điều kiện thi hoặc xét thăng hạng; hình thức, nội dung và xác định người trúng tuyển trong kỳ xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành thư viện, di sản văn hóa, văn hóa cơ sở, tuyên truyền viên văn hóa, ngh

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 478 | lượt tải:0

3815/QĐ-BVHTTDL

Quyết định Ban hành Quy tắc ứng xử nghề nghiệp của người làm công tác thư viện

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 39 | lượt tải:0

05/2022/TT-BVHTTDL

Thông tư số 05/2022/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Hướng dẫn hoạt động thư viện lưu động và luân chuyển tài nguyên thông tin

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 38 | lượt tải:0

2114/QĐ-BVHTTDL

Ban hành Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và định mức kinh tế-kỹ thuật trong hoạt động hỗ trợ, tư vấn về chuyên môn, nghiệp vụ thư viện và dịch vụ hỗ trợ học tập, nghiên cứu

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 406 | lượt tải:966

206/QĐ-TTg

Quyết định số 206/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030"

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 40 | lượt tải:0

93/2020/NĐ-CP

Nghị định 93/2020 - Quy định chi tiết một số điều của Luật Thư viện

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 1312 | lượt tải:492

46/2019/QH14

Luật số 46/2019/QH14 của Quốc hội: Luật Thư viện

Thời gian đăng: 16/02/2025

lượt xem: 39 | lượt tải:0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây